14/02/2024
14/02/2024
14/02/2024
Nếu phải chọn một bản nhạc hay, có lẽ văn chương sẽ là một sự lựa chọn đúng đắn. Vì sao vậy? Chỉ khi người nghệ sĩ đến với văn chương thì họ mới có thể thả hồn mình để cầm bút mà viết, truyền những thứ tình cảm mãnh liệt vào trong tác phẩm của mình. Người nghệ sĩ đã đem những giai điệu tâm hồn mình hòa với tâm hồn độc giả, tạo nên một sự đồng điệu. Bàn về hoạt động sáng tạo thơ ca, Hoàng Minh Châu cho rằng: ''Thơ khởi sự từ tâm hồn, vượt lên bằng tầm nhìn, đọng lại nhờ tấm lòng người viết''.
Người nghệ sĩ luôn có một tâm hồn nhạy cảm, họ luôn bị rung động trước cái đẹp, mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ. Vậy nói ''Thơ khởi sự từ tâm hồn'' là như thế nào? Thơ trước hết là tiếng nói tha thiết tình cảm của con người, tiếng nói rung động của nghệ sĩ trước cuộc đời. ''Thơvượt lên bằng tầm nhìn'' nói đến tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng mới mẻ, tiến bộ mang tầm vóc thời đại. Thơ tuy bắt đầu từ tình cảm, rung động suy tư của người nghệ sĩ nhưng tác phẩm thơ chân chính bao giờ cũng mang tư tưởng khái quát, triết lí về con người, cuộc đời và thời đại. Đó là cầu nối sự đồng cảm giữa tác giả và độc giả. Bởi ''Thơ là tiếng gọi đàn''. Đặc biệt hơn ''Thơ đọng lại nhờ tấm lòng người viết'' muốn nói đến điều làm nên sức sống bất tử của thơ ca nghệ thuật là lòng nhân ái, lòng yêu thương, tình sâu nặng mà nhà thơ dành cho cuộc đời, con người. Nói cách khác, đó chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm nghệ thuật. Cả câu nhận định đã khẳng định thơ ca bắt nguồn từ cảm xúc nhưng thơ không chỉ có cảm xúc mà còn là tư tưởng, tình cảm cuộc đời. Khái quát hơn chính là sự thống nhất tình cảm và lí trí, tư tưởng và tình cảm. Đặc biệt là tình cảm yêu thương, tấm lòng nhân đạo ''từ trong cốt tủy'' của người sáng tạo.
Ý kiến trên hoàn toàn đúng đắn vì nhà văn chân chính luôn lấy việc làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn là mục đích sáng tác, làm cho người gần người hơn. Người nghệ sĩ luôn giàu tình yêu thương, họ day dứt,trăn trở trước cuộc sống con người. Họ hiểu rõ khả năng và sức mạnh to lớn của văn chương. Họ dùng văn chương như một công cụ đắc lực, một ''thứ khí giới thanh cao'' để hiểu về cuộc sống, hiểu con người. Vừa cảm thông, xót thương cho kiếp người đau khổ. Lên án, tố cáo thế lực đen tối đã chà đạp lên quyền sống con người. Đặc biệt hơn là khẳng định, ngợi ca những cái tốt đẹp, phẩm chất tốt đẹp của con người.
Trong Cầu Bố, cõi về là quê nhà ở phía ngôi sao, nơi có bếp rượu giữa nhà bè bạn vây quanh với dòng sông Mẹ và những ngổn ngang gò đống tổ tiên nhà.
Trên bức tranh thế giới bằng ngôn từ của Nguyễn Duy, không gian không tồn tại ngoài thời gian. Ở đó, hình tượng không - thời gian được kiến tạo bằng cùng một loại ngôn ngữ thống nhất để tạo nên cấu trúc biểu nghĩa như một chỉnh thể. Thơ Nguyễn Duy đặt hình tượng thời gian vào dòng lưu chuyển tuần hoàn vĩnh hằng của cái bất diệt và sự phôi pha. Đó là dòng chảy tự nhiên của thời gian được tri nhận bằng cảm quan của con người nông nghiệp. Năm là đơn vị được sử dụng để tính đếm dòng thời gian này. Việc nhà được ghi nhớ theo năm: cha con xa cách bấy lâu/ mấy năm mới uống với nhau một lần. Nó còn là dấu mốc của việc nhà trong dòng chảy của việc nước: những năm bom đạn như gieo mạ/ lại chiếc xe thồ đi về Nam/ cha tôi qua cầu Bùng cầu Ghép/ tôi nhìn theo chớp lửa nhập nhoằng.
Bức tranh nào cũng phải có khung. Khung giúp người xem tranh hình dung nó như một cấu trúc biểu nghĩa toàn vẹn. Đó là lí do có thể gọi bức tranh thế giới bằng ngôn từ trong thơ là ngôn ngữ thế giới quan. Bức tranh thế giới bằng ngôn từ trong thơ Nguyễn Duy - với không gian thu hẹp lấy nhà làm trung tâm, với thời gian của cái bất diệt và phôi pha trong vòng luân chuyển tuần hoàn như dòng sông Mẹ - được đặt vào khung huyền thoại. Chỉ huyền thoại mới lấy thời gian luân chuyển tuần hoàn để đóng khung cho lời nói.
Bức tranh thế giới bằng ngôn từ trong thơ Nguyễn Duy có cái khởi nguyên của truyền thuyết. Đó là cái có nguồn cội từ xa xưa trong đời sống tâm linh của dân tộc, đã hóa thân vào cánh cò, vào sắc mây, vào câu ca dao để bà ru mẹ, mẹ ru con, nên ngàn năm trên dải đất này/ cũ sao được cánh cò bay la đà/ cũ sao được sắc mây xa/ cũ sao được khúc dân ca quê mình. Bức tranh ấy có cả cái mạt thế của thời thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ/ ợ lên nhồn nhột cả tim gan.
Nhưng hễ ở đâu, thế giới chuyển qua thời mạt pháp, thơ Nguyễn Duy liền tạo ra cái chết tái sinh để đưa nó vào khung lưu chuyển luân hồi của huyền thoại, tỉ như ta già ta hóa trẻ con, hoặc sông Mã ơi/ hạt cát dạt bến nào/ điệp khúc sông trong lòng nguyên vẹn/ giọt nước có biệt tăm ngoài biển/ ngày ngày/ làm mây bay về nguồn, hay dù có sao/ đừng thở dài/ còn da lông mọc còn chồi nẩy cây. Thơ Nguyễn Duy khi quằn quại bi hùng, khi giễu nhại hài hước, bài nào cũng man mác một nỗi buồn tuy nhẹ nhàng mà xót xa tê tái nhưng không hề có âm hưởng bi thương là vì thế.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời