26/02/2024
26/02/2024
Nguyễn Du được các thế hệ sau nhắc đến với những sáng tác bất hủ, ông sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Với chữ Hán chúng ta biết đến Thanh Hiên thi tập (khoảng 78 bài) Bắc hành tạp lục, Nam trung tạp ngâm, với chữ Nôm là Truyện Kiều, Văn chiêu hồn...
Người Trung Quốc vẫn nhắc nhỏm nhau "Bất học thi vô dĩ ngôn" để gìn giữ vẻ đẹp vốn có của ngôn ngữ dân tộc, còn với người Việt chúng ta thì không biết đến Kiều thì như chưa biết đến tiếng Việt vậy. Nói như nhà thơ Chế Lan Viên:
"Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn" Nguyễn Du đã từng trở trăn " bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như đã hơn hai thế kỉ trôi qua, Truyện Kiều như một tháp ngà tồn tại trong lòng văn hóa dân tộc, như một giọt lệ cho đời mà Tố Như để lại cho đời. Truyện Kiều chính là minh chứng cho nét đẹp của dân tộc ta, thế nên "Truyện Kiều còn thì tiếng Việt còn".
Nguyễn Du sinh ra, sống và trưởng thành khi giai cấp phong kiến đã bắt đầu bước dần đến con đường khủng hoảng và suy tàn cực độ. Biểu hiện của sự suy tàn này không chỉ ở trên diện rộng với sự suy yếu vai trò thống trị của giai cấp phong kiến. Bối cảnh xã hội với nhiều biến động dữ dội rồi nhiều sự kiện lịch sử trọng đại, lớn lao trên chính là cơ sở sâu xa làm xuất hiện những quan niệm mới về nhân sinh về xã hội và con người trong đó có trào lưu nhân đạo chủ nghĩa với tư tưởng chống đối các thế lực phong kiến chà đạp con người với sự đề cao con người, đề cao cuộc sống trần tục và đòi giải phóng tình cảm con người.
Tài mệnh tương đó là nỗi thống khổ không nói nên lời của biết bao nhiêu bậc tài hoa, bao nhiều tài tử, nỗi thống khổ của kẻ biết vì sao mình khổ mà không thể thay đổi được cuộc sống của chính mình, mong muốn thay đổi nhưng không biết làm sao thay đổi, mong cầu được hạnh phúc nhưng lại không thể hạnh phúc, chỉ còn biết uất hận, nghẹn ngào, phiêu dạt trong kiếp sống đọa đày theo "ý trời".
Độc Tiểu Thanh ký là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du in trong Thanh Hiên thi tập. Có thể Nguyễn Du sáng tác bài này trước hoặc sau khi được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc.
Thắng cảnh Tây Hồ gắn liền với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng có làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau. Tiểu Thanh buồn mà chết giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời chép lại đặt tên là Phần dư (đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc phận của nàng.
Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, lòng dạt dào thương cảm cô gái tài hoa bạc mệnh, đồng thời ông cũng bày tỏ nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận bất hạnh của bao con người tài hoa khác trong xã hội cũ, trong đó có cả bản thân ông.
Chắc chắn là nỗi buồn tủi cho thân phận, nỗi xót xa cho duyên kiếp dở dang và thống thiết hơn cả là nỗi đau nhân tình không người chia sẻ. Tiếng lòng Tiểu Thanh đồng điệu với tiếng lòng Nguyễn Du nên mới gây được xúc động mãnh liệt đến thế. Nhà thơ khóc thương Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh, đồng thời cũng là khóc thương chính mình – kẻ cùng hội cùng thuyền trong giới phong vận.
Nguyễn Du có cảm giác là dường như linh hồn Tiểu Thanh vẫn còn vương vấn đâu đây. Nàng chết lúc mới mười tám tuổi trong cô đơn, héo hắt, đau khổ. Oan hồn của nàng làm sao tiêu tan được?
Chi phẩn hữu thân liên tử hậu, Văn chương vô mệnh lụy phần dư: (Son phấn có thân chôn vẫn hận, Văn chương không mệnh đốt còn vương.)
Ba trăm năm đã qua nhưng tất cả những gì gắn bó với nàng vẫn như còn đó. Chi phấn (son phấn) nghĩa bóng chỉ phụ nữ: tức Tiểu Thanh. Son phấn là vật để trang điểm, song nó cung tượng trưng cho sắc đẹp phụ nữ. Mà sắc đẹp thì có thần (thần chữ Hán cũng có nghĩa như hồn) nó vẫn sống mãi với thời gian như Tây Thi, Dương Quý Phi tên tuổi đời đời còn lưu lại. Nỗi hận của son phần Cũng là nỗi hận của Tiểu Thanh, của sắc đẹp, của cái Đẹp bị hãm hại, dập vùi. Nó có thể bị đày đọa, bị chôn vùi, nhưng nó vẫn để thương để tiếc cho muôn đời.
Văn chương là cái tài của Tiểu Thanh nói riêng và cũng là vẻ đẹp tinh thần của cuộc đời nói chung. Văn chương vô mệnh bởi nó đâu có sống chết như người? Ấy vậy mà ở đây, nó như có linh hồn cũng biết giận, biết thương, biết cố gắng chống chọi lại bạo lực hủy diệt để tồn tại, để nói với người đời sau những điều tâm huyết. Dụ nó có bị đốt, bị hủy, nhưng những gì còn sót lại vẫn khiến người đời thương cảm, xót xa. Nhà thơ đã thay đổi số phận cho son phấn, văn chương, để chúng được sóng và gắn bó với Tiểu Thanh, thay nàng nói lên nỗi uất hận ngàn đời. Hai câu thơ đầy ý vị ngậm ngùi, cay đắng, như một tiếng khóc thổn thức, nghẹn ngào.
Trong Truyện Kiều. Nguyễn Du hơn một lần nói về bất hạnh của người "tài tỉnh chỉ lắm cho trời đất ghen"
"Rằng hồng nhan tự thửơ xưa.
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đầu".
Nàng Kiều với vẻ đẹp, tài năng dường như ẩn chứa trong đó sự hờn ghen đố kỵ của con tạo. Và cũng vô tình trong lễ thanh minh, đi tảo mộ, nàng bắt gặp nấm mộ xè xè bên đường của Đạm Tiên, nghiệm đến thân mình mà than: "Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Và cuộc đời 15 năm lưu lạc của Kiều cũng chính là một câu trả lời cho sự tiên nghiệm đó. Kiều cũng chịu chung số phận với những người đẹp trong lịch sử, họ trở thành nạn nhân của chế độ phong kiến vô nhân đạo.
Nhìn ở góc độ nào đó thuyết tài mệnh tương đồ, hồng nhan bạc phận mà Nguyễn Du nêu ra là xuất phát từ học thuyết của tam giáo đồng nguyên nhưng Nguyễn Du đã cảm nhận và giải thích nó bằng quan niệm rất riêng. Nguyễn Du không hề rơi vào duy tâm hay bi quan. Mặc dù trong tác phẩm có nhiều câu phát biểu trực tiếp của tác giả còn gọi là lời trữ tình ngoại đề mang tính siêu hình nhưng qua hệ thống hình tượng nhân vật ta thấy lời phát biểu của tác giả với tư tưởng tác phẩm mâu thuẫn nhau. Cho nên có thể nói, Nguyễn Du là một nhà tư tưởng không triệt để. Nguyễn Du đã từng bảo rằng “Tài tỉnh chỉ lắm cho trời đất ghen". Cuối cùng Nguyễn Du lại than một câu:
Có tài mà cậy chỉ tài,
Chữ tài liền với chữ tại một vận.
Nhà thơ đã nhận ra cuộc đời là thế. Cuộc đời là sự tranh quyền đoạt thế, lòng ích kỉ của con người làm cho họ sẵn sàng hãm hại nhau, mà người có tài luôn là cái gai trong mắt của những kẻ tiểu nhân. Một xã hội phản động luôn tìm cách loại trừ những bậc tài năng. Thế nên, chúng tôi rất đồng tình với Đỗ Đức Dục: "Trong xã hội phong kiến, tài được quan niệm một cách trìừu tượng mà mệnh là một yếu tố siêu nhiên, và trong vấn đề xung đột giữa tài và mệnh gắn liền với thuyết như Hồng nhan bạc mệnh, Bỉ sắc tư phong mang tính chất trừu tượng và siêu hình, đó là mâu thuẫn giữa cá nhân tài năng với xã hội, rồi đi đến chỗ chung hơn nó được mở rộng thành vấn đề mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội... Cuối cùng, về thực chất đó là quyền sống của con người và chế độ xã hội.
Chủ đề "Tài mệnh ghét nhau" có ý nghĩa khách quan, ý nghĩa xã hội rộng lớn vượt xa chủ đề đó, vượt xa tư tưởng chủ quan của tác giả, nó đề cập đến vấn đề quyền sống của con người trong xã hội phong kiến"
Qua đó, ta cũng thấy rằng ở thế kỉ XVIII, số phận, hạnh phúc của người phụ nữ được bênh vực công khai bằng lời lẽ vừa bị ai, vừa quyết liệt. Có thể xem đây là mầm móng cho tinh thần hiện thực phê phán sau này. Nhưng ở thời đại bấy giờ, Nguyễn Du chỉ dừng lại ở mức độ đồng tình với những mảnh đời bất hạnh thông cảm cho họ và phê phán xã hội chứ chưa tìm ra giải pháp giải phóng họ. Nhìn thấy những bất công để rồi căm phẫn, không giải quyết được bất công để rồi bất lực, bi quan, rồi lại rơi vào chủ nghĩa định mệnh. Đó là trường hợp của Nguyễn Du.
26/02/2024
Tư tưởng "tài mệnh tương đố" là một khái niệm quan trọng trong sáng tác của Nguyễn Du, xuất hiện xuyên suốt từ "Truyện Kiều" đến "Độc Tiểu Thanh Kí". Tư tưởng này thể hiện sự tin vào số phận và vận mệnh của con người, rằng mỗi người sinh ra đã có một vận mệnh riêng và không thể tránh khỏi. Nguyễn Du cho rằng, dù muốn quyết định điều gì đi nữa, con người cũng không thể thay đổi được số phận đã được định sẵn. Trong các tác phẩm của Nguyễn Du, ông thường nhấn mạnh việc chấp nhận số phận và bi kịch của cuộc đời, qua đó truyền tải thông điệp về sự kiên nhẫn, lòng kiên trì và lạc quan giữa những khó khăn. Tư tưởng này cũng phản ánh niềm tin vào công bằng thiên địa và luân hồi của cuộc sống. Những ý kiến này được thể hiện rõ trong các tác phẩm văn học của Nguyễn Du, từ việc miêu tả bi kịch của Kiều trong việc chịu đựng số phận cho đến việc lý giải những biến cố trong cuộc đời Độc Tiểu. Tư tưởng "tài mệnh tương đố" đã trở thành một yếu tố quan trọng giúp làm nổi bật nghệ thuật và triết lí trong sáng tác của Nguyễn Du.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
4 giờ trước
Top thành viên trả lời