đại thi hào nguyễn du đã từng nhận định về số phận của những người phụ nữ hồng nhan bạc mệnh qua những câu thơ: trăm năm trong cõi người ta chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau hay: đau đớn thay phận...

ADS
thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của chung nguyễn
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
ADS
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

27/02/2024

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Nguyễn Du đã nhận định về số phận của những người phụ nữ hồng nhan bạc mệnh qua những câu thơ trong tác phẩm "Tiểu Thanh Kí" và đoạn trích "Trao Duyên". Trong "Tiểu Thanh Kí", ông viết: "Trăm năm trong cõi người ta, chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau", thể hiện sự đau đớn và bi kịch của số phận con người, bày tỏ rằng số phận và tài năng thường xung đột với nhau. Trong đoạn trích "Trao Duyên", Nguyễn Du viết: "Đau đớn thay phận đàn bà, lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung", cho thấy ông thông cảm và chia sẻ với số phận không may của những người phụ nữ tài sắc trong xã hội phong kiến. Đây là cách Nguyễn Du thể hiện lòng nhân ái và sự yêu thương đồng cảm với mọi người thông qua các tác phẩm của mình.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Câu trả lời uy tín

“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời nghìn thu”
Mấy trăm năm đã trôi qua nhưng có lẽ những vần thơ Nguyễn Du vẫn mãi trường tồn trong lòng người đọc. Bởi lẽ nhà đại thi hào viết thơ “ như có máu nhỏ trên đầu ngọn bút , nước mắt thấm qua trang giấy”. Thơ ông đề cập sâu sắc đến nỗi đau từ cổ chí kim của con người nhất là người phụ nữ – những “kiếp hồng nhan” hay những kẻ tài hoa mà bạc mệnh . Ông đã từng nhận định về số phận của những người phụ nữ hồng nhan bạc mệnh qua những câu thơ trong Truyện Kiều:

"Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau "

hay

"Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung "

Và “Độc Tiểu Thanh kí” và đoạn trích “Trao duyên” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho tấm lòng thương người tiếc tài của đại thi hào Nguyễn Du.

Trong xã hội phong kiến đương thời, có biết bao nhiêu người phụ nữ phải sống trong những nỗi đày đọa triền miên cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng Nguyễn Du lại không viết về những người phụ nữ ấy mà chính cái tài “tìm ra điều phi thường trong cái tầm thường” đã giúp ông vượt qua cả rào cản về mặt thời gian( cách xa hơn 300 năm) và không gian địa lí trắc trở( Trung Quốc) để tới tri âm với nàng Tiểu Thanh- người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì làm lẽ nên bị vợ cả ghen, đày ra sống ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ.
Buồn rầu, nàng sinh bệnh chết và để lại tập thơ. Nhưng vợ cả vẫn ghen nên đốt tập thơ,giờ chỉ còn lại một số bài thơ gọi là “phần dư”.

Câu thơ đầu tiên cất lên là lời than cho cái đẹp bị dập vùi, tàn phá phũ phàng:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư”
Cảm xúc trước sự đổi thay của cuộc đời là cảm xúc mang tính nhân văn khá phổ biến trong thơ trung đại. Nguyễn Trãi thăm núi Dục Thúy mà cảm khái trước cảnh “rêu phủ nét chữ người xưa”.Bà Huyện Thanh Quan ngậm ngùi trước cảnh “dấu xưa xe ngựa” giờ chỉ còn là “ hồn thu thảo”, “ nền cũ lâu đài” gợi nhớ một triều đại rực rỡ đã đi qua. Câu thơ của Nguyễn Du có gợi lên lẽ đời dâu bể nhưng mối thương tâm của thi nhân lại đặt nơi cái đẹp bị tàn phá phũ phàng.Hình ảnh thơ đối lập: cảnh đẹp >< gò hoang gợi nghịch cảnh éo le. Từ “tẫn” trong nguyên bản chữ Hán “tẫn thành khư” gợi sự đổi thay mãnh liệt không còn dấu vết nào.Dường như phải có một con mắt tinh tế lắm mới có thể nhận ra đống đổ nát nơi gò hoang xưa đã từng là một địa danh rất đẹp. Thời gian tàn phá lên mọi cảnh vật , phủ mờ đi tất cả. Đang trong dòng hoài niệm bỗng tác giả sực tỉnh và trở về thực tại, với nghịch cảnh trớ trêu, nghịch cảnh giữa qúa khứ và hiện tại, giữa vẻ đẹp huy hoàng/sự hoang vu cô quạnh.

Nhớ đến Tây Hồ là nhớ đến nàng Tiểu Thanh- người con gái tài hoa bạc mệnh. Nguyễn Du xót xa tiếc nuối, ai oán trước số phận nghiệt ngã của Tiểu Thanh .Cái chết của nàng là bằng chứng xót xa cho một kiếp hồng nhan, từ đó càng nuối tiếc trước cảnh và người đẹp đều chịu chung số phận. Nếu như trong Truyện Kiều, Thúy Kiều tri ngộ với số phận Đạm Tiên qua lời kể của Vương Quan thì ở Độc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du thấu hiểu nỗi oan khiên của Tiểu Thanh qua “ mảnh giấy tàn” trước song cửa sổ:

“Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”
Cuộc tri ngộ giữa Thúy Kiều và Đạm Tiên còn có sự chứng kiến của chị em Kiều , còn viếng thăm của Nguyễn Du với nàng Tiểu Thanh chỉ qua một tập sách bị đốt dở. Chữ “ độc” và chữ “nhất”trong câu thơ chữ Hán cũng là để nói một lòng đau tìm gặp một hồn đau.Ông đã một mình đối diện với số đời của Tiểu Thanh. Đây phải chăng là sự đồng cảm giữa “tài tử và giai nhân”,giữa “xưa và nay”.

Người con gái với số phận nghiệt ngã là thế nhưng với ngòi bút nhân đạo của mình, ông đã khai phá được những vẻ đẹp tài năng và tâm hồn ẩn sâu bên trong con người nàng. Đời Tiểu Thanh là điển hình của hai nỗi oan lớn: hồng nhan bạc phận, tài mệnh tương đố.Người đẹp như nàng mà bất hạnh, chết yểu. Có tài thơ văn như nàng mà bị dập vùi. Di cảo của Tiểu Thanh chính là di hận:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vộ mệnh lụy phần dư”.

Nguyễn Du nhắc đến cuộc đời Tiểu Thanh bằng những ẩn dụ tượng trưng quen thuộc , son phấn là biểu tượng cho sắc đẹp, văn chương là ẩn dụ cho tài năng của Tiểu Thanh .Hai vật thể vô tri vô giác được nhân cách hóa như có “thần”,có “ hồn”. Chính nước mắt và máu của Tiểu Thanh đã tạo nên “cái thần”,”cái mệnh”của son phấn, văn chương, hay “niềm cảm thông lạ lung của nhà đại thi hào dân tộc”(hoài Thanh) đã tạo “thần”,cái “hồn” để nó để cho nó để nỗi hận còn vương đến muôn đời ?Cảm xúc của Tố Như càng dồn nén thì câu thơ càng dẫn đến tính đa nghĩa.Nếu hiểu văn chương là chủ thể tự hận thì dẫn đến cách cảm: son phấncó thần, cũng phải xót xa về những việc làm sau khi chết, văn chương không có số mệnh gì cũng bị đốt dở. Nếu hiểu “son phấn”, “văn chương” là đối tượng thương cảm của người đời thì có cách hiểu: son phấn như có thần, sau khi chết người ta còn thương tiếc, văn chương có số mệnh gì mà người ta phải bận lòng đến những bài thơ còn sót lại. Tiểu Thanh đẹp , tài năng là thế,ai mới trông qua tưởng đó là một người phụ nữ “phi thường”,hội tụ tất cả tài năng của quan niệm phong kiến, nhưng họ cũng giống như những người phụ nữ khác đương thời,cũng phải chịu một nỗi đau chung, rất “bình thường” cả về thể xác lẫn tinh thần.

Nhưng xét đến cùng nó cũng quy vào cảm hứng vĩnh hằng của Nguyễn Du trước cái đẹp và tài năng. Ta đã từng bắt gặp nỗi niềm thương cảm của Nguyễn Du thương cho “nghiệp chướng phấn son”, nhưng đồng thời ca ngợi một trang giai nhân tuyệt sắc: “Non bồng xa xuống một cành xinh/ Sắc đẹp màu xuân nức sáu thành” khi viếng ca nữ đất La Thành. Trong “Độc Tiểu Thanh kí”,cái đẹp có thể tàn về than xác nhưng “chôn vẫn hận”. Cái mệnh của Tiểu Thanh thật ngắn ngủi còn cái mệnh của văn chương thì “đốt còn vương”. Giọt nước mắt xót thương cho số phận Tiểu Thanh đã kết tinh lại thành hạt châu trân trọng và ngợi ca cái đẹp. Nếu đặt trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, xã hội phủ nhận tài năng,trí tuệ của người phụ nữ thì tác phẩm của Nguyễn Du lại càng được đánh giá cao bởi chiều sâu nhân đạo.

Đoạn trích "Trao duyên" đã khái quát một cách sâu sắc nhất những cung bậc cảm xúc của Thúy Kiều khi buộc phải rời xa người yêu, đành trao duyên lại nhờ cậy em gái tiếp tục lời hứa với Kim Trọng. Một người phụ nữ yêu hết mình, thủy chung da diết, lại khéo léo, sắc sảo nhưng bạc mệnh, long đong.

Tình yêu là một loại tình cảm vô cùng mạnh mẽ và thuần khiết. Nó có thể khiến con người sẵn sàng làm bất cứ điều gì tốt đẹp và hi sinh cho đối phương. Có mấy ai chịu đựng được nỗi đau phải buông bỏ tình yêu của mình, chấp nhận “nhường” người mình yêu cho người khác dù trái tim vẫn thổn thức bao ngày ? Thế nhưng đặt mình vào vị thế của Thúy Kiều, nàng buộc phải hi sinh mối tình thề non hẹn biển, mặc hạnh phúc lứa đôi cùng Kim Trọng để bán thân cứu lấy gia đình đang gặp biến cố, cứu cha và em đang bị đày đọa chốn thâm tàng tàn. Vì thế, nàng đã phải phá vỡ điển phạm, hạ mình van xin em gái thay mình yêu thương, lắng lo cho người mình yêu.
“… Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Đây giống như một lời nhờ cậy, lời gửi gắm duyên tình của mình cho người khác, nhờ họ thay mình tiếp tục mối lương duyên còn dang dở. Nguyễn Du đã sử dụng từ “cậy” đặt ở đầu câu để gợi tả tình thế tiến thoái lưỡng nan, trong tình cảnh éo le ấy chỉ có Thúy Vân mới có thể giúp đỡ nàng. Không chỉ mang ý tứ nhờ vả, mà từ “cậy” còn hàm chứa sự mong mỏi tha thiết được chấp thuận cùng lòng tin tưởng tuyệt đối đối với người được nhờ vả. Ở đây, Nguyễn Du không dùng từ “nhờ” mà lại sử dụng từ “cậy” bởi vì sắc thái của từ “cậy” mạnh mẽ hơn, đặt người nghe vào vị trí khó xử, không thể từ chối. Còn “nhờ” nghĩa là người nói đề nghị người nghe giúp đỡ mình, vai vế của người nghe và người nói có thể vẫn ngang bằng nhau, người nghe có thể chấp thuận hoặc từ chối lời nhờ vả. Đồng thời dùng từ “chịu” để thể hiện cho việc phải đồng ý, phải bắt buộc nhận lời dù miễn cưỡng, gượng ép. Biết mình đã khiến em gái rơi vào hoàn cảnh khó xử và có lẽ sẽ khiến Thúy Vân phải chịu nhiều thiệt thòi hơn, có khi trở thành bi kịch của cuộc đời em, vậy nên Kiều đã dùng hành động trang trọng để bày tỏ nỗi lòng mình với em. Nàng đã dùng lễ nghi lạy trước thưa sau, thay đổi ngôi vế của hai người để ràng buộc Thúy Vân, để cái tình của mình trao lại cho em. Trong tình huống này, Thúy Vân là người mà Kiều sẽ mang ơn suốt cả cuộc đời nên hành động mời em gái “ngồi lên” để mình “lạy”, “thưa” cũng là điều dễ hiểu. Qua đó cho thấy cái tình giữa Kiều và Kim Trọng nó lớn biết nhường nào.
Sau đó, Thúy Kiều bắt đầu giãi bày lí do cho những hành động trước đó của mình:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp nối tơ thừa mặc em.”
Câu thơ là sự giải bày cho em biết là cuộc tình của chị bây giờ đành dang dở “đứt gánh tương tư”. Chuyện tình của Kiều vừa mới chớm nở nhưng không thể đơm hoa kết trái bởi sóng gió đang ập đến. Chỉ còn đêm nay là đêm cuối cùng ở nhà bởi ngày mai nàng đã trở thành vợ lẽ của người khác, tình yêu với Kim Trọng chỉ còn trong kí ức, bị chôn vùi nơi trái tim đầy rẫy vết hằn chứ không thể nào tiếp tục được nữa. Nàng cảm thấy có lỗi, cảm thấy ray rứt vô cùng đối với em, vì biết rằng mình đang cố ép duyên, bắt buộc em mình phải nhận. Ông bà xưa có câu: “Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên”, duyên là thứ con người không nên ép buộc nhưng Thúy Vân là người mà Thúy Kiều tin tưởng nhất, ngoài Thúy Vân ra thì không ai có thể giúp nàng chuyện này. Nàng vẫn đành giao phó “tơ thừa” để “mặc” Thúy Vân quyết định. Tác giả đã sử dụng điển tích “keo loan” – một thứ keo gắn chắc được chế từ máu của loài chim loan, ngụ ý muốn Thúy Vân dùng thứ keo này để nối tiếp mối duyên với Kim Trọng.
Mặc dù đã trao duyên cho em, nhưng dường như mối tơ duyên vẫn đè nặng trong lòng nàng. Những hồi ức, kỉ niệm ngọt ngào đẹp đẽ như ùa về trong nàng, nàng đành bày tỏ tâm sự cùng em.
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”
Câu thơ thể hiện sự ngậm ngùi chua xót của Kiều khi nhớ về những tháng ngày êm đềm, đẹp đẽ bên người mình yêu. Đối với nàng, mối tình với Kim Trọng là những kỉ niệm lứa đôi đẹp đẽ nhất, nhưng đối với Thúy Vân đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ. Vì thế, Kiều không muốn em phải bận lòng, băn khoăn, nàng chọn cách tâm tình với em từ những kỉ niệm của mình để em gái cảm thấy gần gũi, cảm thông. Nàng kể về kỉ niệm cùng quạt ước, cùng nâng chén rượu thề nguyện, chúng ta dễ dàng nhìn thấy một cảnh tượng sống động đang diễn ra của một đôi uyên ương đang đong đầy hạnh phúc. Từ “khi” được lặp lại ba lần gợi cho người đọc hình dung một tình cảm sâu đậm, nhưng xót xa và dáy xé tâm can. Qúa khứ tươi đẹp là thế, nhưng hiện tại của nàng, từ khi chàng Kim về quê chịu tang, bao sóng gió ập đến, đứng giữa chữ hiếu và tình, nàng phải làm gì mới nên cho hai bên. Hoàn cảnh trái ngang, cha và em mắc oan bị bắt, nàng phải bán thân mình mới cứu được gia đình, nhưng người nàng yêu, một lòng vì nàng, lời thề nguyện dưới ánh trăng mới hôm nào chưa kịp nguội. Một trái tim đang rỉ máu, đau đớn, day đứt, quằn quại. Nhìn cảnh cha và em bị tra tấn, đòn roi, là một người con có hiếu, nàng không đành chứng kiến hiện thực tàn khốc như thế. Vậy nên nàng đành hi sinh tình yêu của mình để làm tròn bổn phận một người con, báo hiếu với gia đình.

Đại thi hào Nguyễn Du đã nhận định về số phận của những người phụ nữ hồng nhan bạc mệnh qua những câu thơ trên quả là đúng đắc và sâu sắc. Trong quan niệm về con người, Nguyễn Du đặc biệt chú ý tới hai loại người - người tài và người phụ nữ. Chính ở đó, quan niệm của ông về con người chứa đựng những nét đặc sắc nhất. Đồng thời, sắc thái tư duy Việt trong tư tưởng Nguyễn Du về con người cũng bộc lộ rõ nhất khi ông thể hiện các quan niệm này. Trước Nguyễn Du, trong văn học Việt Nam nói chung, trong quan niệm về con người nói riêng luôn đặt trọng tâm sự chú ý của xã hội vào người quân tử, vào người làm quan, người có học vấn, bậc Nho sĩ. Theo quan niệm của họ, chỉ nam giới mới được coi trọng, được đánh giá là có tài hay không có tài; cái tài chỉ được thể hiện qua con đường duy nhất là văn chương, thơ phú, cử nghiệp. Nhưng tới Nguyễn Du, và gần như đồng thời với ông là Hồ Xuân Hương, người tài không còn là độc quyền của nam giới nữa. Hồ Xuân Hương đã làm một việc quan trọng, mởđường cho việc đưa hình tượng người phụ nữ vào trung tâm điểm của văn học và vào nhận thức của dân tộc giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, đó là phê phán tận gốc những mặt trái đằng sau hình tượng người quân tử theo quan niệm cũ, đưa những nhu cầu tình cảm, tâm lý, khát vọng sống của người phụ nữ lên thành những quyền cơ bản của con người, có quyền và có giá trị bình đẳng với nam giới. Tới Nguyễn Du, ông đã làm tiếp một việc quan trọng nữa, và là sự kế tiếp như một quy luật tất yếu, cần phải có trong sự tự nhận thức của dân tộc, đó là tôn vinh người phụ nữ như những tinh hoa, anh tài của xã hội.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
ADS

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

logo footer
FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
Location Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
app store ch play
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Tuấn Quang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved
gift-box
survey
survey
Đặt câu hỏi