viết văn nghị luận phân tích thơ "Đi Thi Tự Vịnh" của Nguyễn Công Trứ

ADS
thumb up 0
thumb down
Trả lời câu hỏi của Lee Huỳnh ly na
  • Câu trả lời phải chính xác, đầy đủ dựa trên kiến thức xác thực:
    • ✔ Đối với câu hỏi trắc nghiệm: Đưa đáp án lựa chọn + giải thích lý do chọn đáp án.
    • ✔ Đối với câu hỏi tự luận: Đưa lời giải và đáp án cho câu hỏi.
    • ✔ Đối với câu hỏi trả lời ngắn: Đưa ra đáp án + giải thích lý do.
    • ✔ Chấp nhận sử dụng ảnh do thành viên viết tay, ảnh cần rõ nét, không bị mờ, vỡ ảnh.
  • Sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu.
  • Tránh đưa ra các ý kiến cá nhân mang tính chất chủ quan.
  • Nếu sử dụng thông tin từ nguồn khác, phải trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác.
  • Tuyệt đối không được sao chép các thông tin từ các trang khác, từ AI hoặc chatGPT.
ADS
CÂU TRẢ LỜI
avatar
Timi

24/04/2024

Trợ lý học tập AI - Câu trả lời này chỉ mang tính tham khảo
Bài thơ "Đi Thi Tự Vịnh" của Nguyễn Công Trứ là một tác phẩm nổi tiếng trong văn học Việt Nam, thể hiện tinh thần đua tài, quyết tâm lập công danh của người sĩ trước khi bước vào cuộc thi hương trường. Bài thơ này cũng phản ánh niềm tin và hoài bão về công danh, tự tin và lạc quan trong học tập và thi cử của người viết. Trong bài thơ, Nguyễn Công Trứ đã sử dụng thể thơ "thất ngôn bát cú" để biểu đạt ý nghĩa. Phương thức biểu đạt chính được sử dụng là biểu cảm, qua đó tác giả muốn gửi thông điệp về ý thức trách nhiệm nghĩa vụ của bản thân trong việc nổ lực học tập, tiếp thu tri thức nhằm phục vụ và đem lại lợi ích cho quốc gia dân tộc. Từ hai câu thơ "siêu sale 25-4 shopee" không phải là một phần của bài thơ "Đi Thi Tự Vịnh", do đó không liên quan đến việc phân tích bài thơ. Để phân tích chi tiết bài thơ "Đi Thi Tự Vịnh", bạn có thể xem xét các yếu tố như cấu trúc, ngôn ngữ, ý nghĩa và thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm qua từng câu chữ.
Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
1.0/5 (1 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
avatar
level icon
Câu trả lời uy tín

Nguyễn Công Trứ người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra vào thời điểm đất nước có nhiều biến động, thăng trầm. Ông là người có tài có đức, là vị quan hết lòng vì dân vì nước. Ông để lại cho đời rất nhiều bài thơ Nôm và hát nói cũng như phú. Thơ ông có nhiều chủ đề khác nhau, đặc biệt là nói về chí nam nhi, nợ công danh. Bài thơ Đi thi tự vịnh dưới đây là một:
"Đi không há lẽ trở về không

Cái nợ cầm thư quyết trả xong

Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt

Dở đem thân thế hẹn tang bồng

Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông

Trong cuộc trần ai, ai dễ biết

Rồi ra mới biết mặt anh hùng.

Chúng ta phân tích bài thơ trên."

Nguyễn Công Trứ đã dùng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật để thể hiện nỗi niềm tâm trạng của mình, theo nhà thơ chí làm trai là phải đỗ đạt để trả cái nợ sách đèn, đem kiến thức học được mà làm những việc tốt giúp ích cho đời, để lại tiếng tốt với núi sông. Nhan đề bài thơ Đi thi tự vịnh, tác giả nêu lên ý chí của mình khi lều chõng lên đường đi ứng thí. Bài thơ mở đầu:

"Đi không há lẽ trở về không

Cái nợ cầm thư quyết trả xong"

Chí làm trai đã được nhiều nhà thơ nhắc đến, mỗi người có cách nói riêng, nhưng đều có muốn nhắc nhở phận nam nhi rằng đã làm trai là phải làm được việc lớn, có ích với đời với dân với nước, là phải ngang dọc trời đất
"Chí làm trai nam bắc đông tây

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể."

Trong cuộc đời của mình Nguyễn Công Trứ đã làm được nhiều điều có ích với dân với nước. Ông đã từng làm quan, đi đánh giặc, làm doanh điền sứ mở rộng đất đai trồng trọt. Ông là người nói được và làm được, những gì ông để lại vời đời đều được người đời trân trọng, gìn giữ. Những gì ông khẳng định là những gì ông làm được và điều này những một lời răn dạy cho thế hệ đi sau:

"Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông."

Nam nhi là người phải ngang dọc trời đất có một tầm hoạt động rộng rãi ở trong trời đất cho nên phải có tiếng tốt đối với núi sông. Danh mà tác giả đề cập ở đây là công danh, là tiếng thơm, tiếng tốt, tên tuổi của một con người gắn liền với thời đại. Có lần ông nói: Không công danh thà nát với cỏ cây. Trong một bài thơ nói về quan niệm sống của người con trai, tác giả từng khẳng định: Con người sinh ra sau cùng ai cũng phải chết nhưng phải được lưu tiếng thơm trong sử sách. Ngày nay trong thành phố ta cũng như nhiều nơi trong nước đều có tên đường Nguyễn Công Trứ. Ở hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải còn có đền thờ của ông hương khói nghi ngút quanh năm. Đó chính là cái danh của Nguyễn Công Trứ. Trong hai câu thực và hai câu luận đều có phép đối nhau gọi là bình đối hay đối ngẫu từng cặp. Tất nhiên không quá gò bó đẽo gọt như Bà Huyện Thanh Quan.
Cách sử dụng từ ngữ trong câu giữa từ đi không, về không nối liền nhau bằng từ há lẽ tác giả đã lập luận theo cách phản đề. Đi không nghĩa là lúc lên đường chưa có bằng cấp trong tay, lúc trở về thì không thể trở về không mà phải là đỗ đạt. Lúc ra đi chưa làm được gì, lúc trở về phải làm được điều gì lớn lao, có ích. Từ há lẽ trong câu thơ là để tác giả nhắc nhở mình, tự hỏi mình phải làm gì để có kết quả. Đó là sự tự cao tự đại, có thể gọi là chất ngông trong con người của nhà thơ. Thật khác với Tú Xương. Trong lúc Tú Xương lên đường ứng thí thì cười cợt đùa nhã, không tin tưởng vào thực lực của mình:

"Tấp tểnh người đi tớ cũng đi

Cũng lều cũng chõng cũng vô thi."

Đối với Nguyễn Công Trứ ta thấy hiện lên một đấng nam nhi với ý chí quyết tâm, hăm hở quyết liệt hơn, khẳng định điều bắt buộc phải làm, không làm được thì không trở về: phải trả xong cái nợ đèn sách nghĩa là phải thi đậu. Cụm từ phải trả xong thật dứt khoát, có tính kiên quyết không do dự. Tác giả luôn luôn quan niệm rằng người con trai có nợ với đời: nợ đèn sách, bút nghiên. Trong một bài thơ khác ông cũng đề cập đến cái nợ khác là nợ tang bồng.

"Nợ tang bồng vay trả, trả vay."

Trong thời phong kiến, những kẻ sĩ có ý chí luôn luôn nung nấu một bầu nhiệt huyết, phải thi đậu sao bao nhiêu năm đèn sách miệt mài – Nguyễn Công Trứ lúc còn hàn vi lại càng nung nấu ý chí ấy nhiều hơn nữa. Khi sáng tác lên bài thơ này ông đang còn ở độ tuổi sung sức, đường gân thớ thịt đang căng tràn nhựa sống. Dù có một chút tiêu cực nho nhỏ muốn làm ẩn sĩ vui thú điền viên, nhưng vốn bản tính bồng bột sôi nổi, ông viết:
"Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt

Dở đem thân thế hẹn tang bồng"

Trong hai câu thực của bài thơ, tác giả đã sử dụng nhiều từ Hán Việt điền viên, tuế nguyệt, thân thế tang bồng làm cho câu thơ có vẻ trang trọng hơn. Tác giả muốn vui thú với cảnh cỏ cây mây nước cho phôi pha ngày tháng. Ý niệm này không đúng với con người tích cực của Nguyễn Công Trứ thời trai trẻ chưa lập được công danh. Huống chi tác giả chỉ rắp mượn mà thôi. Vốn là con người hăm hở nên muốn làm một cái gì đó to lớn vĩ đại. Bàng bạc trong bài thơ có tính ngang tàng rất phù hợp với bản chất của Nguyễn Công Trứ đặc biệt là ở hai câu thơ cuối cùng. Trong lúc làm quan cũng như trong các sáng tác của Nguyễn Công Trứ ông luôn thể hiện một niềm lạc quan yêu đời, dấn thân vào mọi hoạt động, cái tôi trong con người ông luôn được thể hiện bởi sự tự hào đĩnh đạc.

Bài thơ có một giọng điệu mạnh mẽ, rắn rỏi, ngôn ngữ thơ chắc nịch, khẳng định, ý thơ lưu loát trôi chảy một mạch liên tục liền nhau từ đầu đến cuối đã nêu lên một ý chí vững chắc đầy niềm tin tưởng của một con người: phải thi đỗ để lập công danh với đời. Bài thơ đã gợi cho thanh thiếu niên học sinh chúng ta một suy nghĩ: học tốt thi đậu đem kiến thức xây dựng nước nhà. Và không thể bắt chước cái tôi Nguyễn Công Trứ phô trương thách thức mà phải khiêm tốn hơn.

Qua bài thơ ta thấy Nguyễn Công Trứ là người có tài có đức, ông không chỉ có đóng góp trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước mà ông còn để lại những áng thơ văn có giá trị vô giá. Bài thơ Đi thi tự vịnh như một lời nhắc nhở, một động lực cho đấng nam nhi không chỉ trong xã hội phong kiến mà cả xã hội hiện nay cố gắng phấn đấu, có ích cho xã hội.

Hãy giúp mọi người biết câu trả lời này thế nào?
0/5 (0 đánh giá)
thumb up 0
thumb down
0 bình luận
Bình luận
ADS

Nếu bạn muốn hỏi bài tập

Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút

Ảnh ads

CÂU HỎI LIÊN QUAN

logo footer
FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
Location Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
app store ch play
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Tuấn Quang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved
gift-box
survey
survey
Đặt câu hỏi