28/04/2024
28/04/2024
28/04/2024
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858), quê huyện Nghi Xuân, tỉnh hà Tĩnh, là một nhà quân sự, một nhà kinh tế và một nhà thơ lỗi lạc bậc nhất trong lịch sử Việt Nam trung cận đại. Ông là người có khí phách kiên cường, một người của hành động, trải qua nhiều thăng trầm, Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời.
Có thể nói thơ ông sinh động, giàu triết lý nhân văn nhưng hóm hỉnh, đó là chất thơ có được từ đời sống, lấy đời sống làm cốt lõi. ngông cuồng, kiêu ngào nhưng luôn gắn mình với cuộc đời cùng những trách nhiệm cao cả. Bài thơ “Chí làm trai” thể hiện sâu sắc tinh thần ấy.
Trước hết, có thể nói Nguyễn Công Trứ là người có tài, có chí, luôn khát khao với cuộc sống, với con đường công danh, hăm hở đem tài trí ra giúp nước, giúp đời. Trung hiếu đối với Nguyễn Công Trứ không những là nghĩa vụ mà còn là triết lí sống. Đó là một tinh thần sống mãnh liệt, hăng say, hăm hở đến cuồng nhiệt.
Bởi đối với ông trong cõi đời này người với người: “Hơn nhau hai chữ anh hùng” mà thôi. Tiền bạc, danh vọng có rồi cũng mất. Chỉ riêng tên tuổi, sự nghiệp vĩ đại mới lưu danh hậu thế, cùng núi sông trường tồn mãi mãi.
Bao trùm lấy thơ của Nguyễn Công Trứ về chí anh hùng của kẻ làm trai phải có chí anh hùng. Đây không phải là quan niệm riêng gì Nguyễn Công Trứ mà là của tất cả các nhà nho chân chính đương thời. Có điều Nguyễn Công Trứ đã nâng nó lên thành một cảm hứng nồng nhiệt. Ông hát lên với tất cả sức trai, với tất cả lòng tin của một con người đầy hoài bão đầy tự tin phóng túng.
Bốn câu đầu Nguyễn Công Trứ nêu lên một quan niệm về chí làm trai:
“Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
Nơ tang bồng vay giả, giả vay
Chí làm trai am bắc đông tây
Cho phí sức vẫy vùng tỏng bốn bể”.
Nhiều lần Nguyễn Công Trứ nói đến chí làm trai:
“Chí tang bỗng hẹn với giang sơn
Đường trung hiếu, chữ quan thân gánh vác”.
Một lần ông viết:
“Đố kị sá chi con tạo
Nợ tang bồng quyết trả cho xong”.
Điều đó chứng tỏ trong tâm hồn, trong suy nghĩ của ông luôn luôn thường trực chí làm trai. Cái này chỉ có thể là động lực quan trọng giúp Nguyễn Công Trứ làm nên nghiệp lớn sau này. Điều hấp dẫn độc đáo là chí làm trai được nâng lên tầm vũ trụ, gắn với cảm hứng vũ trụ. Hình ảnh to lớn, kì vĩ, nhạc điệu thoải mái, giọng thơ đầy hứng khởi, tạo nên cảm giác say sưa, hào hứng hiếm có:
“Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.
…..
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu”.
Bài thơ cũng nêu lên một quan niệm về chữ “vinh”, chữ “nhục”, chữ “danh” của kẻ làm trai. Thật ra đây là ý thức bản ngã của nhà thơ. Phải biết vinh, biết nhục và đặc biệt là phải có danh. Với Nguyễn Công Trứ “công danh” cũng trở thành một khát vọng cháy bỏng:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”.
(Đi thi tự vịnh – Nguyễn Công Trứ)
Đây là một quan điểm đúng đắn, đáng trọng, vì ở đời không biết vinh nhục thì còn gì là nhân cách? Nguyễn Công Trứ ý thức đầy lòng tự tin vào mình thì không thể viết những câu thơ chắc chắn, đường hoàng như thế. Cái hay của Nguyễn Công Trứ là ông biết gắn chứ “danh”, chữ “nhục” với chữ “công”, tức là muốn lưu danh phải có công chữ “công”, tức là muốn lưu danh phải có địa vị, phải có công lao.
Cái chí làm trai lẫy lừng giữa đất trời này luôn sôi sục trong tinh thần của ông trong suốt cuộc đời. Chí làm trai phải “dọc ngang, ngang dọc” trong trời đất, đủ sức “vẫy vùng nơi bốn bể” chứ không phải an phận thủ thường theo lối nữ nhi thường tình hoặc luồn mình bó gối trong chốn quan trường đầy ganh đua. Người làm trai tự nhận trọng trách lớn lao về mình, tự gánh trên đôi vai cái “nợ tang bồng”.
Cái chí ấy không nằm trong lý lẽ viễn vong vô nghĩa mà từ lâu đã trở thành lý tưởng, là điều tâm niệm, trở thành lẽ sống, động lực sống, mục đích sống của biết bao thế hệ:
“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”.
Tính chất lãng mạng và hiện thực hòa quyện trong cái nhìn vừa thực tế vừa lí tưởng ở Nguyễn Công Trứ thêm vào bốn câu ở khổ giữa là để lại để láy lại, để kết lại chí làm trai của mình. Từ khát vọng công danh vươn tới chí khí anh hùng. Chí anh hùng và sự khát vọng kinh bang tế thế là điều Nguyễn Công Trứ muốn nói, muốn thổ lộ, muốn đạt tới:
“Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ
Quyết ra tay buồm lái trận cuồng phong
Chí những toan xẻ núi lấp sông
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ”.
Vẫn cái giọng phơi phơi tự tin, vẫn cái cảm hứng nồng nàn đầy khát vọng của trí làm trai nhưng ý thơ có sự phát triển, có sự nâng lên cấp độ. Trước hết ông ý thức sâu sắc để đặt được chữ “danh”, để làm tròn được chí nam nhi, con đường ấy đầy khát vọng có chí làm trai nhưng ý trí thơ có sự phát triển có sự nâng lên cấ độ.
Trước hết ông ý thức sâu sắc để đạt được chữ “danh”, để làm tròn được chí nam nhi, con đường ấy gian nan thử thách. Ông ví mình như chàng thủy thủ đang băng vượt giữa dặm dài đại dương đầy “mây tuôn song vỗ”. Trong hoàn cảnh ấy anh hùng càng cần được thể hiện hơn bao giờ hết. Đó cũng là lí tưởng mà Nguyễn công Trứ ôm ấp.
Rõ ràng, Nguyễn Công Trứ đã tự giải phóng những ràng buộc về mặt tinh thần thường ngự trị trong đời sống người xưa, tạo nên một thái độ khác thường, thái độ của một con người tự ti, tự khẳng định tài năng, ý thức rõ nét về bản ngã của mình.
Ở đây có sự kết hợp hài hòa đẹp đẽ giữa con người và công dân và con người cá nhân, đồng thời bộc lộ lối sống con người phong túng và tâm hồn lãng mạng phong tình. Bài thơ kết lại trong niềm vui phơi phới của con người thành đạt đã trả xong món nợ tang bồng và tự cho mình cái quyền được hưởng thụ:
“Đường mây rộng thênh thang cử bộ
Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu”.
Nếu như khổ đau, khổ giữ có cái giọng thoải mái, ngang dọc đầy hăm hở, đầy chí khí thì khổ cuối cùng là một tiếng reo vui khoái trá, với một cảm giác ngây ngất, lâng lâng của con người thành đạt. Đây là một niềm vui rất trần thế, rất thanh cao chứ không phải sự hưởng thụ tầm thường: “Thảnh thơi thơ túi rượu bầu”. Thơ và rượu vốn là thú vui mà các bậc nho sĩ ngày xưa quen hưởng lạc.
Nhưng khác với mọi người, Nguyễn Công Trứ không hề che đậy lối sống hưởng thụ đó, không những không ngần ngại mà đã mạnh dạn nói trắng ra… Ông đã đạt đến độ giác ngộ lẽ sống, thức nhận rõ đạo làm người giữa chốn trần gian đầy rẫy lo toan.
Chí khí, thái độ sống của Nguyễn Công Trứ đọc qua ta thấy nó bó hẹp và mang màu sắc của Nguyễn Công Trứ. Đọc lần nữa ta thấy nó bó hẹp và mang màu sắc của chủ nghĩa cá nhân. Nhưng chí lớn tài cao, muốn trổ hết thì cách nói ấy ở ông là dĩ nhiên. Điều đáng nói là ở những người biết thấu hiểu và cảm thông.
Tuy nhiên, mỗi thời đời đại có một quan niệm sống của riêng mình. Cơ bản, quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ là tích cực. Có bổ sung ở chỗ người anh hùng hiện đại vừa làm những việc lớn như “xẻ núi lấp sông” nhưng có lúc âm thầm lặng lẽ mà vẫn làm nên “đấng anh hùng đâu đấy tỏ”.
Nhà tơ Tố Hữu có lần tâm sự: “Thông qua văn học có thể giúp cho con người rất nhiều: một tầm nghĩ mới, một ước vọng mới, một tình cảm mới và tất cả những cái đó cần thiết cho con người lớn lên”.
Trong ý nghĩa lớn lao và thiên chức cao cả đó của văn học, “chí làm trai”, “chí anh hùng” của Nguyễn Công Trứ đã có tác dụng nâng đỡ tâm hồn người đọc, giúp ta vượt lên những toan tính ích kỉ, hạn hẹp mà gắn mình với những trách nhiệm lớn lao của tổ quốc, của thời đại. Qua “Chí làm trai” của Nguyễn Công Trứ nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm của thanh niên ngày nay đối với đất nước.
Tài khoản ẩn danh
28/04/2024
28/04/2024
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
13/06/2025
Top thành viên trả lời