02/05/2024
02/05/2024
02/05/2024
Nguyễn Trãi – đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa, một nhà tư tưởng vĩ đại của dân tộc. Ông đã để lại nhiều tác phẩm có gá trị trong đó có Quốc âm thi tập – Tập thơ Nôm sớm nhất hiện còn lưu giữ được – thể hiện vẻ đẹp tâm hồn tác giả và những sáng tạo trong nghệ thuật thơ Đường của Nguyễn Trãi. Tập thơ gồm 254 bài chia thành 53 chủ đề: Tự than, Bảo kính cảnh giới, Hoa mộc môn, … Riêng nhóm thơ Bảo kính cảnh giới có 61 bài chiếm vị trí quan trọng trong tập thơ. Điều đáng nói là thơ Bảo kính cảnh giới của Nguyễn Trãi không giáo huấn, khuyên răn triết lí. Đó là thơ đích thực, thể hiện tâm hồn thi sĩ. Bài thơ Bảo kính cảnh giới số 43 hay còn gọi là Cảnh ngày hè là một bài thơ tả cảnh ngụ tình, tình hòa trong cảnh, thể hiện đậm nét cuộc sống, tâm sự của tác giả. Bài thơ đã toát lên vẻ đẹp của hồn thơ Nguyễn Trãi:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”.
<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>Thiên nhiên vốn là mảnh đất vô cùng màu mỡ của biết bao thi nhân trung đại cày xới và cũng, là nguồn thi hứng không bao giờ vơi cạn Nguyễn Trãi. Nhà thơ sống giữa thiên nhiên, bầu bạn cùng thiên nhiên, và lấy từ thiên nhiên những bài học quý giá làm “gương báu răn mình” để rồi ghi lại trong tập thơ “Bảo kính cảnh giới”. Một nhân cách thanh cao “tỏa sáng tựa sao khuê”, một tấm lòng cao cả, vẫn luôn tha thiết với nhân dân, với đất nước dẫu trong tình cảnh ngặt nghèo bị nghi kị, dèm pha hay ngay cả khi có cuộc sống yên bình, nên thơ giữa thiên nhiên của Nguyễn Trãi đã đến với người đọc chính qua những vần thơ ấy. Tám câu thơ của “Cảnh ngày hè” đã góp thêm nét vẽ để bức chân dung tâm hồn của Ức Trai hiện lên rõ nét nhất. Sáu câu thơ đầu tiên trong bài là bức tranh thiên nhiên rực rỡ, tràn trề sự sống của mùa hè và một không khí náo nhiệt, rộn ràng của cuộc sống thường nhật vẫn đang tiếp diễn nơi thôn quê. Thế nhưng, sau bức tranh trần trề nhựa sống ấy, hai câu thơ cuối bài thể hiện sâu sắc cho người đọc thấy được tấm lòng tha thiết với nhân dân, đất nước của Ức Trai.
Ở phần đầu của bài, với sáu câu thơ, tác giả đã cho chúng ta cảm nhận được sự giao cảm với thiên nhiên tạo vật của hồn thơ Ức Trai. Nguyễn Trãi là một nhà thơ yêu thiên nhiên. Với ông, thiên nhiên là anh em, là bầu bạn:
“Núi láng giềng chim bầu bạn
Mây khách khứa nguyệt anh tam
Tâm hồn nhà thơ luôn rộng mở đón nhận thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh: thời chiến, thời bình, khi buồn, khi vui, lúc bận rộn hay khi thư nhàn:
Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
Ngày vắng xem hoa bợ cây
Ở bài thơ này, Nguyễn Trãi đón nhận thiên nhiên trong lúc:
Rồi hóng mát thuở ngày trường”.
<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>Có ý kiến cho rằng, đó là thời bình, Nguyễn Trãi đang tham gia triều chính, dốc lòng phung sự đất nước. Cũng có ý kiến cho rằng, lúc đó là khoảng 1438 – 1439 khi Nguyễn Trãi xin về trông coi chùa Tư Phúc ở Côn Sơn, thực tế là về ở ẩn, lánh xa bụi trần. Thế nhưng, dù là khoảng thời gian nào thì thời điểm được ghi lại trong thơ cũng là thời điểm hiếm hoi trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Bởi vì “rồi” là rỗi rãi, “ngày trường” là ngày dài. Một ngày như thế trong đời Nguyễn Trãi đâu nhiều? Ông là người thân không nhàn mà dù thân có nhàn thì tâm cũng không nhàn. Tấc lòng ưu dân ái quốc trong ông “đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông”. “Một phút thanh nhàn trong thuở ấy” đối với Nguyễn Trãi đối với Nguyễn Trãi đáng quý biết bao. Thời gian rảnh rỗi, tâm hồn thư thái thảnh thơi, đất trời trong lành mát mẻ, … Thật hiếm hoi mới có được một hoàn cảnh lí tưởng đến thế để yêu say cảnh đẹp. Thi nhân xưa đến với thiên nhiên thường dùng bút pháp vịnh, nhưng ở đây Nguyễn Trãi lại thiên về bút pháp tả, không chỉ gợi lên khung cảnh, mà còn thể hiện cụ thể những thanh nha, an yên của cảnh vật ấy ra trước mắt người đọc. những câu thơ tiếp theo thực sự đã gợi lên trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên mùa hè thật sinh động và giàu sức sống:
“Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”.
Tâm hồn Nguyễn Trãi như hòa cùng cảnh vật, nắm bắt lấy cái hồn của cảnh vật để làm nên sức sống tưng bừng của bức tranh mùa hè. Cây hoè xanh tốt đang xòe tán rộng. Động từ “đùn đùn” đảo lên trước cụm từ “tán rợp giương” gợi cảm giác màu xanh đậm (xanh lục) mở ra, tỏa rộng theo cả chiều cao (đùn đùn) lẫn chiều rộng (giương). Hoa thạch lựu bên hiên nhà đang “phun” thức đỏ. Động từ “phun” gợi tả những bông hoa lựu như đang nở to thêm nữa, đỏ thắm thêm nữa. Câu thơ gợi lên liên tưởng đến hình ảnh “đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” của Nguyễn Du. Cùng cảnh tả mùa hè ta thấy hai thi sĩ tài ba đều có cái nhìn tinh tế. Với “lửa lựu lập lòe”, Nguyễn Du thiên về tạo hình gợi hình ảnh bông hoa rung rinh trước gió, lúc ẩn lúc hiện trong đám lá xanh như đốm lửa lúc sáng lúc tắt. Còn ở Cảnh ngày hè, với từ “phun” Nguyễn Trãi thiên về gợi sức sống. Màu đỏ của hoa lựu tuôn trào ra mạnh mẽ. Giữa màu xanh đậm của tán hòe và màu đỏ rực rỡ của hoa lựu là màu hồng bát ngát của áo sen dậy hương thơm “hồng liên trì đã tiễn mùi hương”. Không chỉ vậy, bức tranh ngày hè của Nguyễn Trãi còn được bổ sung thêm một gam màu ấm nóng nữa: màu vàng của ánh chiều tà lúc “tịch dương”. Trong không gian của buổi chiều mùa hè đầy sức sống ấy có những âm thanh “dắng dỏi” của tiếng ve – tiếng ve như tiếng đàn rộn rã và tiếng “lao xao” từ xa vọng lại. Ở đây “lao xao” là âm thanh của cuộc sống con người gợi sự đông đúc, nhộn nhịp của cảnh mua bán ở một chợ cá làng chài. Đó là âm thanh của cuộc sống no đủ, âm thanh được Nguyễn Trãi cảm nhận không chỉ bằng thính giác mà bằng cả tấm lòng hướng về cuộc sống. Bức tranh mùa hè sinh động được tạo nên bởi sự kết hợp hài hòa của đường nét, hình khối (đùn đùn, rợp giương, phun, …), của màu sắc (màu xanh lục của tán hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng của nắng chiều), của ánh sáng, của âm thanh (tiếng dắng dỏi của cầm ve, tiếng lao xao của chợ cá). Nhà thơ sử dụng các động từ mạnh cho thấy sức sống của cảnh vật và gợi tính chất của bức tranh. Không gian trong bức tranh mở rộng từ gần – hiên nhà đến xa – chợ cá. Nguyễn Trãi đã hòa màu sắc, âm thanh, đường nét theo quy luật của cái đẹp trong hội họa, âm nhạc làm cho bức tranh thiên nhiên trở nên có hồn, vừa gợi tả vừa sâu lắng. Cảnh sắc thiên nhiên trong cảm nhận và thể hiện của Nguyễn Trãi không phải trong trạng thái tĩnh mà ở trạng thái động, tất cả như đang cựa quậy, đang lan tỏa, đang vươn lên đầy sức sống nhưng cũng không hề thiếu sự tinh tế, hài hòa. Nếu so sánh với sự mộc mạc, thô nhám như trong câu thơ của tác giả thời Hồng Đức, thì quả thực chất thơ của Ức Trai “tình” hơn hẳn:
<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>“Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè”.
Nguyễn Trãi đã cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả các giác quan từ thị giác, thính giác đến khứu giác, nhưng hơn hết sự cảm nhận đó là bằng cả tâm hồn. Hồn thơ Nguyễn Trãi giao cảm mạnh mẽ và tinh tế của cảnh vật. Bức tranh ngày hè độc đáo và ấn tượng mà người người đọc đang thưởng thức ấy được tạo nên bởi tình yêu thương sâu sắc, bởi tâm hồn nhạy cảm và tài quan sát tinh tế của nhà thơ. Đồng thời cũng nhờ tài sử dụng ngôn ngữ, những từ tượng hình, tượng thanh, từ thuần Việt giàu sức gợi và liên tưởng đã được Nguyễn Trãi sắp xếp đầy tài tình trong những dòng thơ cô đọng và giàu sức gợi. Cội nguồn của bức tranh thiên nhiên sống động ấy chính là tấm lòng thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống của tác giả. Cảnh vật thanh bình, yên vui bởi nhà thơ đang thanh thản. Âm thanh “lao xao chợ cá” dội tới từ phía làng chài phải chăng đang thể hiện niềm vui của tác giả trước cảnh làm ăn yên ấm của người dân? Và tiếng cầm ve “dắng dỏi” cất lên phải chăng là những rộn ràng trong lòng Nguyễn Trãi khi thấy nhân dân được no đủ? Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên nhưng trước hết tấm lòng ông vẫn tha thiết với con người, với dân, với nước. Cuộc sống của người dân, đặc biệt là những người dân lao động (dân đen, con đỏ). Nguyễn Trãi ước:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”.
Nguyễn Trãi đã sử dụng một điển tích trong văn học Trung Quốc để nói lên mong ước của mình: Ngu cầm – đàn của vua Nghiêu vua Thuấn. Nguyễn Trãi mong có chiếc đàn của vua Nghiêu – Thuấn để nhân dân bốn phương được giàu có yên vui. Ta có thể hiểu nhìn dân giàu đủ Nguyễn Trãi mong có cây đàn của vua Thuấn để gảy khúc Nam Phong, ca ngợi cuộc sống của dân chúng khắp nơi đang được no ấm. Ta cũng có thể hiểu Nguyễn Trãi ước mong có một thời thái bình đời vua Nghiêu vua Thuấn để nhân dân được thực sự giàu đủ. Nhưng có lẽ với một người như Nguyễn Trãi, ta phải hiểu là ông mong gảy khúc Nam Phong của vua Thuấn để cho nhân dân giàu đủ khắp đòi phương – khắp mọi nơi. Đó là ước mong được hành động vì dân.
<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>Câu kết của bài thơ là một câu thơ sáu chữ ngắn gọn, giọng thơ chắc nịch dồn nén cảm xúc của cả bài. Nguyễn Trãi nhắc đến “dân”. Điểm kết tụ của hồn thơ Ức Trai không phải là thiên nhiên tạo vật mà là ở con người. Lúc rảnh rỗi tưởng như hoàn toàn đắm mình trong thiên nhiên mà Nguyễn Trãi vẫn không nguôi nghĩ về nhân dân. Câu thơ kết đã thể hiện lý tưởng nhân nghĩa mà bao năm Nguyễn Trãi phấn đấu. Suốt cả cuộc đời ông chỉ có một ước mong: mong cho quốc thái dân an:
“Sách một hai phiên làm bậu bạn ;
Rượu năm ba chén đổi công danh.
Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa ?
Cầu một ngồi coi đời thái bình”.
Bài thơ Cảnh ngày hè ra đời trong thời kỳ trung đại nhưng đã có những cách tân nghệ thuật so với thơ Đường luật: câu thơ thất ngôn xen lẫn lục ngôn, hình ảnh thơ gần gũi với đời thường, ít ước lệ tượng trưng, từ ngữ dân dã. Điều này khiến cho bài thơ thuộc nhóm Bảo kính cảnh giới không nặng tính giáo huấn mà giàu chất thơ, đồng thời cũng gần gũi với đời hơn rất nhiều.
Cảnh ngày hè đã toát lên vẻ đẹp của thơ Nguyễn Trãi: giao cảm tinh tế với thiên nhiên tạo vật, vui trước cuộc sống dân lành no đủ. Từ trong sâu thẳm hồn thơ ấy là khát vọng muốn được giúp đời giúp dân nhiều hơn nữa. Chính điều này đã đem lại ý nghĩa nhân văn sâu sắc cho ngòi bút Ức Trai – người có tấm lòng sáng tựa sao Khuê.
02/05/2024
gian đời người hơn 60 năm, thi nhân đã để lại một gia sản vô cùng quý giá.
Chỉ tính riêng trong lĩnh vực văn chương, lời nhận định kia đã không có gì là thái quá. Trước tác của Ức Trai có thơ, có văn, lại có cả lịch sử, địa lí nữa. Ở mảng thơ, bên cạnh tập thơ chữ Hán nổi tiếng Ức Trai thi tập, thiết nghĩ còn cần phải đặc biệt chú ý vị trí vai trò của tập Quốc âm thi tập. Tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được này, không những chiếm địa vị quan trọng trong lịch sử văn học nước nhà mà còn là tài liệu chủ yếu để nghiên cứu lịch sử phát triển của ngôn ngữ nước ta. Gồm những bài thơ viết rải rác trong suốt cuộc đời, Quốc âm thi tập đã giúp người đọc khai mở nhiều phần sâu kín trong tâm hồn người thi sĩ bất hạnh vào loại bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Quốc âm thi tập có một cấu trúc chỉnh thể với 4 phần. Trong đó phần vô đề gồm toàn bộ những bài thơ không có tựa đề, được chia thành các nhóm : ngôn chí, mạn thuật, trần tình, thuật hứng, tự thán, bảo kính cảnh giới… Chùm thơ Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình – bài 43 luyến láy du mình) có 61 bài. Những câu thơ trong Bảo kính cảnh giới dương, có chút vui điểm vào cuộc đời đầy u uất của thi nhân Nguyễn Trãi.
Được tổ chức theo kiểu một bài thất ngôn bát cú nhưng bài thơ lại mở đầu bằng một câu thơ thất luật, ngắt nhịp tự do, tự nhiên như lời nói thường ngày :
Rồi " hóng mát" thuở ngày trường
Khởi hứng bằng một tâm thế – tâm thế của một con người an nhàn hưởng thụ (thiên nhiên). Bài thơ có lẽ được làm trong một lần Nguyễn Trãi về ở Côn Sơn (theo Đào Duy Anh, trong đời mình Nguyễn Trãi có nhiều lần về ở Côn Sơn). Rũ sạch bụi lầm của chốn phồn hoa đô hội, con người đến với thiên nhiên tự do, tự tại, giản dị không gò ép. Phải chăng, vì thế mà câu thơ cũng vuột ra khỏi cái khuôn khổ của thơ luật để giản dị, nhẹ nhàng như chính con người và cuộc sống chốn sơn lâm.
Câu thơ nhẹ nhàng gợi nghĩ đến hình ảnh một vị tiên đồng, đạo cốt. Từ rồi (có bản chép là rỗi) kết hợp với ngày trường cộng hưởng với nhịp thơ kéo giãn thời gian của một ngày. Cảm giác thư thái cũng theo đó mà ngân nga.
Nguyễn Trãi không phải người không biết giới hạn. Có nhiều lần ông đã bày tỏ ý nguyện "công thành thân thoái". Nếu phải viện đến lí do thì có lẽ nhiều người sẽ nghĩ đến sự gắn bó rất chân thành của tác giả với thiên nhiên. Những bức tranh thiên nhiên mà tác giả đã say sưa nét vẽ như ở trong bài thơ này đã chứng tỏ một điều cuộc sống đâu phải cứ giàu có thì sang trọng :
Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Cuộc sống của thi nhân là vậy. Cả cuộc đời nghèo khó, nhưng đó chỉ là ở phương diện vật chất mà thôi.
Nhìn vào thi liệu thì bức tranh tất được vẽ vào lúc cuối hè : hoa lựu đang rộn ràng chuyển sang màu đỏ rực, sen thì đã tiễn mùi hương. Việc lựa chọn thời gian nghệ thuật cũng như cách thức miêu tả thiên nhiên hẳn không phải là chuyện ngẫu nhiên. Lá hoè ngả sang màu lục, um tùm dồn lại thành từng khối lá xanh, toả rộng, che rợp cả mặt sân. Hoa lựu không còn nhạt mà rực rỡ như những chùm lửa đỏ. Sau này Nguyễn Du cũng dùng hoa lựu để nói cái oi bức, rực nóng của mùa hè :
Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông.
Dưới những ao đầm, hoa sen hồng đã nở rộ xen giữa những chiếc lá mát xanh, cả đầm sen đưa hương thơm ngát. Điểm vào cái không gian ấy là tiếng ve kêu ồn ã như đang trút hết mình cho phút chiều tà. Nếu mùa xuân là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc thì mùa hạ là lúc trưởng thành. Đặc biệt cuối hè là lúc nó phô diễn một sức sống căng đầy, sung mãn nhất của sự trưởng thành. Nó bắt đầu kết trái cho mùa thu để rồi chuẩn bị cho sự hoá thân vào mùa đông. Thiên nhiên trong bài thơ này là thế : dường như nó đang ở trạng thái căng đầy nhất. Một bức tranh thiên nhiên đủ gợi cho chúng ta liên tưởng về một cuộc sống ấm no, đủ đầy.
Hài hoà cùng thiên nhiên là cuộc sống sinh hoạt thường nhật của người lao động :
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Hàm ý của câu thơ dồn cả vào cái âm thanh của chợ cá. Sự náo nhiệt của chợ cá gợi lên sự liên tưởng về cuộc sống no ấm thanh bình của người dân. Bởi chợ cá ở đây rất có thể chỉ là một góc chợ quê, mà âm thanh vẫn rộn ràng náo nhiệt vô cùng.
Làm theo thể thất ngôn bát cú nhưng kết cấu đề – thực – luận – kết xem ra không phải là lựa chọn hợp lí để tiếp cận bài thơ này. Bài thơ có thể được chia theo bố cục 6/2. Trên là vẻ đẹp của thiên nhiên và âm thanh cuộc sống, dưới là ước vọng của nhà thơ :
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
là một mô típ thường thấy trong thơ Nguyễn Trãi. Một tấc lòng ái ưu luôn chỉ chực dâng lên cùng sóng nước. Câu thơ gắn với một điển tích. Ở Trung Quốc thời cổ đại có một triều đại lí tưởng (thực chất là một cộng đồng người nguyên thuỷ sống theo bộ tộc) được đời đời truyền tụng như là một hình mẫu đẹp – thời vua Nghiêu Thuấn. Vua Thuấn có cây đàn (gọi là Ngu cầm). Vua thường hay dạo khúc Nam phong trong đó có câu "Nam phong chi thì hề khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề" nghĩa là "gió nam thuận thì có thể làm cho dân ta thêm nhiều của". Mượn một điển tích, Nguyễn Trãi đã không giấu được sự vui mừng khi thấy dân chúng khắp nơi đang được đủ đầy no ấm.
Câu thơ cuối cùng tương ứng với câu đầu, vượt ra khỏi luật Đường. Nhịp thơ 3/3 ngắn gọn, dứt khoát, thể hiện ước vọng chân thành của Nguyễn Trãi, mong sao ở mọi nơi, cuộc sống thanh bình no ấm sẽ đến với mọi người.
Câu nói của người xưa "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ) thật hợp với cuộc đời Nguyễn Trãi. Một cuộc đời trọn tình, vẹn nghĩa với nước với dân.
02/05/2024
VbaothihathuThiên nhiên là nguồn cảm hứng thơ bất tận, để người nghệ sĩ mài mực viết nên những trang hoa tờ hoa của mình. Đến với Cảnh ngày hè người đọc bắt gặp một bức tranh thiên nhiên mới mẻ, sinh động, giàu sức sống nội lực toát ra từ chính cảnh vật. Điều khiến bài thơ trở nên đặc biệt là ở chỗ, bức tranh cảnh ngày hè được pha trộn giữa những đường nét mới mẻ hiện đại, đậm chất sống nguyên sơ của cuộc sống đời thường - điều vô cùng hạn chế trong văn học trung đại, kết hợp với chất liệu cổ điển của một mùa hè đã đi vào điển tích, từ đó khiến bài thơ mang đậm dấu ấn riêng của hồn thơ Nguyễn Trãi.
<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Với cương vị là một bậc công thần của dân tộc, ngày ngày mang vác trên vai gánh nặng chính sự, quốc sự thì hình ảnh Nguyễn Trãi trong câu thơ đầu này quả thực có chút lạ lẫm. Nhưng “Hóng mát thuở ngày trường”, phần nào cho người đọc thấy một tâm thế khác của Nguyễn Trãi, ông phải chăng đã tạm gác việc triều chính, thế sự nhiễu nhương sang một bên, tạm lánh đục về trong, sống đời sống của một hiền nhân thanh cao không vướng bụi trần. Phần nào có lẽ cũng vì thế, mà tâm hồn thi sĩ, tình yêu thiên nhiên trong thi nhân đã khiến những cảnh sắc thiên nhiên vốn thân thuộc, bình dị trở nên mơn mởn sức sống sức xanh:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Nếu trong thơ Mới ta bắt một thế giới hữu sắc đa hương, mang đậm dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ thì ngược dòng thời gian trở về trước, văn học trung đại còn kiềm tỏa sự sáng tạo và cái tôi nghệ thuật. Thiên nhiên cũng không được tự do thể hiện bản sắc đa dạng và sức sống nội lực của nó, thiên nhiên trong văn học trung đại vẫn là những ước lệ điển hình mà người sau kẻ trước noi theo. Thế nhưng, đến với Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, ta dường như cảm nhận được một nội lực khác tỏa ra từ bài thơ. Vẫn là những hình ảnh quen thuộc của thiên nhiên ngày hè, nào hòe, nào lựu, và cả hồng liên trì. Cái mới lạ ở đây là cách Nguyễn Trãi gọi dậy sức sống ở trong từng loại thảo mộc, là ở ngòi bút rất có hồn của thi nhân như đã điểm bút lực vào cho cả những thứ tưởng rất đỗi vô tri. Các động từ mạnh “đùn đùn, phun, tiễn” cho thấy sức sống căng tràn, dồi dào, thấy được nhựa sống đang lên trong lòng vạn vật. Thơ trung đại ưa vẻ đẹp của cái tĩnh, thanh trong vị, đạm trong màu sắc, ít khi nào ta thấy thiên nhiên trong thơ trung đại có những chuyển động mạnh, ấy vậy mà trong thơ Nguyễn Trãi sự sống như đang phun trào từ chính bản thân của cảnh vật. Đó không chỉ là sức sống, mà còn là nội lực sống căng tràn, tưởng như đang chảy tràn trên trang sách. Nghe thấy được những chuyển động tế vi, mạch sống quý giá ấy bên trong cảnh vật thiên nhiên, Nguyễn Trãi qủa nhiên phải là một hồn thơ vô cùng tinh tế với những sợi tơ đàn bén nhạy đến độ. Có được cảm quan đó, hẳn đấy phải là một tâm hồn yêu thiên nhiên, và rạo rực với niềm tin vào cuộc sống, vào dòng lưu chuyển đất trời. Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi nhờ những chuyển động mạnh mẽ đầy nội lực ấy mà bớt đi vẻ đài các cao sang ước lệ của văn chương cổ điển, mà mang đậm hơi thở của cuộc sống:
<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”.
Ở trên là bức tranh thiên nhiên rạo rực sức sống, thì ở dưới là hình ảnh cuộc sống bình dị, câu trên là dân dã thường ngày câu dưới lại vẫn pha chút ước lệ cổ điển của văn học trung đại. Rõ ràng, trong tâm niệm của người Việt, hình ảnh chợ biểu hiện phần nào chất lượng cuộc sống, ở câu thơ này, chợ cá “lao xao”, phần nào thấy được cuộc sống no đủ, tấp nập, buôn bán huyên náo của người dân chứ không còn “lác đác bên sông chợ mấy nhà nữa”. Chính những gợi ý nho nhỏ từ câu thơ này, mà ở dưới mong ước của bậc trung quân, yêu nước thương dân càng thêm sâu sắc, rõ nét:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương".
Điển tích đàn Ngu cầm của vua Nghiêu Thuấn là hình ảnh về đời sống nhân dân an cư lạc nghiệp, thái bình thịnh trị. Từ đây, có thể hiểu tấm lòng tác giả đó là ông khao khát, mong muốn, mong mỏi nhân dân có cuộc sống an lạc, thái bình, không trải qua cảnh binh đao giày xéo. Chính ước mơ ấy đã phần nào giúp ta hiểu hơn về tấm lòng Nguyễn Trãi, một nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ.
Bằng việc sử dụng sinh động, linh hoạt các động từ mạnh mang đến nội lực từ bên trong sự vật, Nguyễn Trãi dường như không chỉ đang khắc họa bức tranh mùa hè mà còn đang khiến sự vật tự họa mình trên trang viết, tự thể hiện sức sống nội lực, căng tràn của chính nó, có lẽ vì thế mà dẫu sử dụng kết hợp một vài chất liệu cổ điển đã cũ đã quen, bài thơ của Nguyễn Trãi vẫn để lại dấu ấn riêng của hồn thơ ông. Đặc biệt, đằng sau bức tranh thiên nhiên, điều đọng lại làm xúc động trái tim người đọc là tấm lòng lo cho nước, thương dân của nhà thơ.
Bằng chiếc thuyền tâm hồn có mái chèo là ngòi bút, Nguyễn Trãi đã mang cả tâm hồn yêu thiên nhiên và cái đẹp vào trang viết, để khiến sự vật như hồi sinh và thể hiện sức sống nội lực bên trong cảnh vật. Bên cạnh đó, một cách giản dị và sâu sắc bài thơ còn khiến người đọc thêm ngậm ngùi và thấm thía bởi tấm lòng cao cả của Nguyễn Trãi khi luôn một lòng yêu nước, thương dân.
02/05/2024
Bài thơ "Cảnh ngày hè" của Nguyễn Trãi phản ánh vẻ đẹp độc đáo của bức tranh ngày hè và tâm hồn yêu thiên nhiên, đất nước, con người của nhà thơ. Bài thơ này được viết trong tập quốc âm thi tập, gồm 254 bài, là tập thơ nôm sớm nhất hiện còn, và Nguyễn Trãi là một trong những người đặt nền móng và mở đường cho sự phát triển của thơ tiếng Việt.
Mở bài của bài thơ "Cảnh ngày hè" tạo ra sự dồn nén cảm xúc cho toàn bài thông qua việc miêu tả độc đáo và tỉ mỉ của bức tranh cảnh ngày hè. Tác giả đã thể hiện tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước, đặc biệt là tấm lòng ái nước, thương dân của ông.
Kết bài của bài thơ còn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc bởi ngôn ngữ, hình ảnh thơ giản dị, độc đáo và cách kết thúc bài thơ với câu thơ lục ngôn. Tác phẩm này thể hiện sự tinh tế và sâu sắc của tác giả trong việc miêu tả cảnh ngày hè và tâm hồn yêu nước.
Từ thông tin trên, có thể thấy rằng bài thơ "Cảnh ngày hè" của Nguyễn Trãi không chỉ là một tác phẩm văn học vĩ đại mà còn là một bức tranh tinh tế về tình yêu thiên nhiên, đất nước và con người. Sự dồn nén cảm xúc và độc đáo trong ngôn ngữ, hình ảnh thơ đã tạo nên ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, làm nên giá trị văn học đặc biệt của tác phẩm này.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời