Soạn bài Tràng Giang (Huy Cận)
I. Đôi nét về tác giả Huy Cận
- Huy Cận (1919 - 2005), tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
- Ông là nhà thơ lớn trong phong trào Thơ mới và cũng là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của nền thơ hiện đại Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 cho đến nay.
- Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
II. Đôi nét về bài thơ Tràng giang
1. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ được viết vào mùa thu năm 1939, in trong tập Lửa thiêng – tập thơ đầu tay của Huy Cận.
2. Bố cục
Gồm 3 phần:
+ Phần 1 (hai khổ thơ đầu): Cảnh sông nước và tâm trạng buồn của thi sĩ trước thiên nhiên.
+ Phần 2 (hai khổ tiếp theo): Hình ảnh con người xuất hiện qua các chi tiết, hình ảnh thơ.
+ Phần 3 (còn lại): Nỗi niềm cô đơn, sầu vạn kỉ của thi sĩ.
3. Nội dung
Bài thơ thể hiện nỗi sầu nhân thế, sầu vũ trụ, đồng thời bộc lộ lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha của thi sĩ qua bức tranh thiên nhiên rộng lớn, đẹp đẽ nhưng đượm buồn.
4. Nghệ thuật
- Sử dụng nhiều hình ảnh mang tính chất cổ điển, giàu sức gợi.
- Ngôn ngữ giản dị, trong sáng.
III. Hướng dẫn soạn bài Tràng giang
Câu 1 trang 118 SGK Văn 11/1: Phân tích cấu tứ của bài thơ Tràng giang.
Trả lời:
Bài thơ có cấu tứ độc đáo:
- Bài thơ lấy cảm hứng từ dòng sông Hồng mênh mông sóng nước.
- Dòng sông ấy không chỉ là dòng sông mà còn là dòng đời với bao nỗi buồn vui của kiếp người trôi nổi.
- Bài thơ mở ra hai hướng vô cùng đối lập nhau: cao và thấp; xa và gần; rộng và hẹp. Đó chính là sự vận động của tứ thơ.
Câu 2 trang 118 SGK Văn 11/1: Phân tích mạch cảm xúc của bài thơ.
Trả lời:
Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ cảnh sông nước đến cảnh nội tâm của chủ thể trữ tình. Mạch cảm xúc này được thể hiện rõ ràng thông qua bố cục ba phần của bài thơ.
Câu 3 trang 118 SGK Văn 11/1: Những tín hiệu giao mùa nào được nhắc tới trong bài thơ? Nêu nhận xét về cách dùng từ láy trong câu thơ thứ hai.
Trả lời:
Những tín hiệu giao mùa được nhắc tới trong bài thơ:
- Âm thanh tiếng gà trưa xao xác, báo hiệu một ngày sắp hết.
- Tiếng trống thu không vang vọng, báo hiệu chiều đã muộn.
- Bóng chiều sa, màn đêm đang dần buông xuống.
=> Nhận xét về cách dùng từ láy trong câu thơ thứ hai: Từ láy “lớp lớp” diễn tả sự chồng xếp lên nhau của mây trời, gợi ra vẻ đẹp nên thơ, hữu tình của thiên nhiên.
Câu 4 trang 118 SGK Văn 11/1: Phân tích ý nghĩa của các cặp từ trái nghĩa trong bài thơ.
Trả lời:
Các cặp từ trái nghĩa trong bài thơ:
- Củi một cành khô lạc mấy dòng: Sự nhỏ bé, lẻ loi, đơn chiếc của cành củi khô giữa dòng nước mênh mông.
- Bến cô liêu vắng teo unit 1: Sự quạnh hiu, hoang vắng của bến bờ.
- Đìu hiu: Buồn bã, thê lương.
- Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều: Sự tĩnh lặng, yên ả của không gian.
- Nắng xuống, trời lên sâu chót vót: Sự cao vời vợi của bầu trời, sự thăm thẳm của dòng sông.
=> Các cặp từ trái nghĩa góp phần làm nổi bật khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ nhưng đượm buồn. Đồng thời, nó cũng khắc họa tâm trạng cô đơn, lẻ loi của chủ thể trữ tình.
Câu 5 trang 118 SGK Văn 11/1: Phân tích giá trị của các biện pháp tu từ được sử dụng trong bài thơ.
Trả lời:
Biện pháp tu từ được sử dụng trong bài thơ:
- Điệp ngữ: “sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
- Đảo ngữ: “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”.
- Nhân hóa: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”.
- So sánh: “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
- Câu hỏi tu từ: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”.
- Đối lập: Cao >< thấp; xa >< gần; rộng >< hẹp.
=> Các biện pháp tu từ trên đã góp phần tạo nên những hình ảnh thơ đặc sắc, giàu sức gợi. Qua đó, thể hiện nỗi buồn, nỗi cô đơn của chủ thể trữ tình.
Câu 6 trang 118 SGK Văn 11/1: Phân tích cái tôi trữ tình của Huy Cận trong bài thơ.
Trả lời:
Cái tôi trữ tình của Huy Cận trong bài thơ là cái tôi đầy cô đơn, lẻ loi. Nó luôn khao khát được hòa nhập với cuộc sống, với con người nhưng cuối cùng vẫn phải chấp nhận sự cô đơn, lẻ loi. Cái tôi ấy tìm kiếm sự đồng điệu trong thiên nhiên nhưng càng tìm kiếm thì lại càng thấy mình nhỏ bé, lạc lõng.