câu 1: Bài thơ trên được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
câu 2: Các phương thức biểu đạt được sử dụng trong bài thơ trên là tự sự và miêu tả
câu 3: Phép đối được sử dụng trong các cặp câu sau đây:
- - 4: Năm canh máu chảy đêm hè vắng/ Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
- - 6: Có phải tiếc xuân mà đứng gọi / Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ
câu 4: Các từ láy trong bài thơ là: Khắc khoải, lửng lơ, rống rã, ngẩn ngơ
câu 5: Bài thơ được gieo vần chân và vần lưng xen kẽ nhau ở các -2-3-4-5-6-7.
câu 6: Trong đoạn thơ trên, Nguyễn Khuyến đã sử dụng biện pháp tu từ đối một cách tinh tế và hiệu quả để tạo nên những hình ảnh giàu sức gợi, thể hiện tâm trạng u buồn, cô đơn của nhân vật trữ tình.
- Đối về mặt ngữ âm: Câu thơ thứ hai với thanh bằng ở chữ "lửng" được đặt cạnh câu thơ thứ ba với thanh trắc ở chữ "thác". Sự đối lập này tạo nên sự nhịp nhàng, uyển chuyển cho lời thơ, đồng thời làm tăng thêm tính nhạc điệu cho bài thơ.
- Đối về mặt ý nghĩa: Câu thơ thứ nhất miêu tả tiếng kêu của con chim cuốc, biểu tượng cho nỗi lòng thương nhớ quê hương đất nước của người dân Việt Nam. Câu thơ thứ tư lại nói đến việc con chim cuốc kêu suốt đêm dài, thể hiện sự dai dẳng, bền bỉ của nỗi đau khổ, tiếc nuối. Hai câu thơ này đối nhau về mặt ý nghĩa, tạo nên sự tương phản, làm nổi bật chủ đề chính của bài thơ - nỗi lòng thương nhớ quê hương đất nước.
- Đối về mặt cấu trúc: Câu thơ thứ hai và câu thơ thứ tư đều có cấu trúc giống nhau, đều gồm hai vế: "năm canh/sáu khắc + máu chảy/hồn tan". Cấu trúc đối xứng này giúp cho lời thơ trở nên cân đối, hài hòa, dễ đọc, dễ nhớ. Đồng thời, nó cũng góp phần nhấn mạnh vào sự đau đớn, xót xa của nhân vật trữ tình.
Tóm lại, biện pháp tu từ đối trong đoạn thơ đã góp phần tạo nên vẻ đẹp độc đáo cho bài thơ, khiến cho lời thơ trở nên sâu sắc, giàu ý nghĩa, đồng thời thể hiện tài năng nghệ thuật của nhà thơ Nguyễn Khuyến.
câu 3: (1) Thục Đế: Vua nước Thục, có tên Đỗ Vũ. Tương truyền sau khi mất nước, vua Thục chết, hoá hồn thành con chim Quyên (còn gọi là chim Cuốc), ngày đêm kêu "Cuốc! Cuốc!" tiếng kêu nghe rất ai oán. (2) Thác: Chết
câu 7: Bài thơ của Nguyễn Khuyến thể hiện tâm trạng sâu lắng và đầy nỗi niềm của nhân vật trữ tình. Qua hình ảnh con cuốc kêu, tác giả đã khéo léo gợi lên những cảm xúc về nỗi nhớ quê hương, nỗi đau mất mát và sự cô đơn.
1. Nỗi nhớ quê hương: Tiếng kêu của con cuốc không chỉ đơn thuần là âm thanh mà còn là biểu tượng cho nỗi nhớ quê hương, đất nước. Nhân vật trữ tình dường như đang sống trong nỗi nhớ về một thời đã qua, về những kỷ niệm đẹp đẽ của tuổi trẻ và quê hương.
2. Nỗi đau mất mát: Hình ảnh vua Thục Đế hóa thành chim cuốc sau khi mất nước gợi lên nỗi đau mất mát, sự bi thương khi phải chứng kiến quê hương rơi vào tay giặc. Điều này khiến cho tâm trạng của nhân vật trở nên nặng nề, đầy trăn trở.
3. Cảm giác cô đơn: Nhân vật trữ tình cảm thấy cô đơn trong đêm hè vắng lặng, khi mà tiếng kêu của cuốc vang lên như một tiếng lòng kêu gọi, giục giã những người lữ khách đang lang thang trong cuộc đời. Sự ngẩn ngơ của khách giang hồ cũng phản ánh sự lạc lõng, không tìm thấy chốn về.
4. Sự trăn trở về thời gian: Nhân vật trữ tình không chỉ nhớ về quê hương mà còn trăn trở về thời gian, về những năm tháng đã qua. Câu hỏi "có phải tiếc xuân mà đứng gọi" thể hiện sự hoài niệm về tuổi trẻ, về những điều đã mất đi.
Tóm lại, tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ là sự kết hợp giữa nỗi nhớ quê hương, nỗi đau mất mát, cảm giác cô đơn và sự trăn trở về thời gian. Những cảm xúc này được thể hiện một cách tinh tế qua hình ảnh và âm thanh, tạo nên một bức tranh tâm hồn đầy sâu sắc và ý nghĩa.
câu 8: Qua bài thơ ta thấy được Nguyễn Khuyến là một nhà nho yêu nước, thương dân và luôn đau đáu nỗi niềm với đất nước. Ông đã mượn tiếng kêu của loài chim cuốc để nói lên tâm sự của mình trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ.