Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm "Truyện Kiều" - kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam, ngoài giá trị nội dung sâu sắc "Truyện Kiều" còn rất thành công về nghê thuật. Với nghệ thuật tả người qua bút pháp ước lệ tương đương, tả cảnh thiên nhiên qua bút pháp tả và gợi thì nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật cũng rất xuất sắc. Tiêu biểu là đoạn trích "Kiều thăm mộ Đạm Tiên".
Đoạn trích nằm ở phần đầu "Gia biến và lưu lạc", sau khi gia đình gặp cơn nguy biến, Kiều bán mình chuộc cha, trước khi chia tay Kim Trọng nàng đã đến viếng mộ Đạm Tiên - một người con gái hồng nhan bạc mệnh.
Vẫn bằng giọng thơ trang trọng, cổ kính, Nguyễn Du mở đầu bằng bức tranh phong cảnh:
"Sè sè nắm đất bên đàng
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh"
Đó là một buổi chiều, thời điểm hoàng hôn trong văn học, nó gợi nỗi buồn man mác. Buổi chiều là lúc "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", là thời điểm dễ gợi nhớ gợi thương nhất. Đứng trước nấm đất sè sè thấp nhỏ, cỏ héo hắt mọc không đều, nửa vàng nửa xanh, có cây cao cây thấp, rõ ràng nấm mộ vô chủ, không người nhang khói, nhạt phai trước nắng mưa cuộc đời.
Trước mộ Đạm Tiên, Thúy Kiều với tấm lòng nhân hậu bị ám ảnh bởi hai điều:
Thứ nhất là sự khác biệt giữa nơi chôn cất và cách chôn cất của những người bình thường so với những người tài hoa bạc mệnh như Đạm Tiên:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân!"
Những người chết yểu, chết oan ức thường không được yên thân, yên phận. Đạm Tiên được chôn cất ở ven đường thật đáng buồn, đáng thương!
Thứ hai là sự khác biệt giữa cuộc sống và cái chết: Còn sống Đạm Tiên là ca nhi nổi tiếng tài sắc, được nhiều người ngưỡng mộ nhưng khi chết rồi thì:
"Sống làm vợ khắp người ta
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng"
Hai câu thơ của Nguyễn Du giống như một tiếng thở dài ngao ngán trước số phận nghiệt ngã của Đạm Tiên. Nàng phải sống kiếp lẽ mọn, lấy thân mình mua vui cho thiên hạ, sống không có hạnh phúc riêng tư. Và khi chết rồi vẫn không có một manh chiếu che chắn, một giọt nước mắt xót thương.
Nỗi xúc động của Thúy Kiều mỗi lúc một thêm mãnh liệt. Từ lòng thương người, Kiều nghĩ đến phận mình, nghĩ đến chàng Kim:
"Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài mà chi"
Từ thương người, Kiều chuyển sang thương mình. Đó là mối quan hệ đồng cảm giữa những người cùng cảnh ngộ: Người mệnh bạc ắt hẳn đa mang/ Một phen thử sóng nhau cùng/ Biết đâu đó cũng là duyên?
Sau đó, Thúy Kiều quay lại than thở cho Đạm Tiên:
"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
Trong đoạn thơ trên, Nguyễn Du đã khắc họa nỗi đau đớn, xót xa của Thúy Kiều khi đứng trước nấm đất lạnh lẽo, sè sè của Đạm Tiên. Qua đó, ta thấy được tấm lòng nhân hậu, vị tha của Thúy Kiều. Đồng thời, nhà thơ khẳng định một giá trị nhân bản sâu sắc: Thế giới này, cuộc đời này, cái đẹp, cái thiện không dễ gì tồn tại. Đạm Tiên tài sắc là vậy mà sớm lụi tàn.
Bằng ngòi bút tinh tế, Nguyễn Du đã vẽ lên một bức tranh giàu sức gợi cảm. Qua đó gửi gắm niềm cảm thông, xót xa trước số phận bất hạnh của người phụ nữ nói chung và người phụ nữ tài sắc vẹn tròn nói riêng.