Nhà văn Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ông ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau năm 1954, tập kết ra miền Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mỹ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học. Tác phẩm của ông thuộc nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như trong thời bình. Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" được viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Nhân vật ông Sáu là nhân vật chính của tác phẩm, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc. Đặc biệt là ở tình cảm cha con ông với bé Thu.
Cũng như bao người khác, ông Sáu đi kháng chiến với mong muốn giảm bớt giặc Pháp. Vì vậy, ngay từ khi còn ở ngoài Bắc, ông đã khao khát được gặp lại vợ con sau tám năm dài xa cách. Ông Sáu vô cùng xúc động, háo hức khi được về phép thăm nhà, quên cả những gian khổ của chặng đường hành quân. Khi xuồng chưa kịp cập bến, nhìn thấy con gái, ông đã vội vàng "nhảy thót lên, khom người, hai tay đưa về phía trước, miệng lắp bắp: "ba đây con! ba đây con". Nhưng trái với niềm mong ngóng của ông, bé Thu hoảng sợ, chạy ào đi rồi hét gọi má. Ông Sáu vô cùng buồn bã, thất vọng, đau đớn.
Trong ba ngày nghỉ phép, ông chẳng dám đi đâu xa, chỉ quanh quẩn ở nhà chăm sóc con. Song, ông càng cố gắng bao nhiêu, bé Thu càng lùi ra xa bấy nhiêu. Ông chỉ mong được nghe một tiếng "ba" của con bé mà không được. Nỗi mong ước ấy được gửi gắm vào lời nói với con: "Thôi, ba đi nghe con!". Khi ông một mình trở lại chiến khu, tâm trạng ông vô cùng buồn bã, chỉ mong chiến tranh chấm dứt để quay trở về với con gái.
Trở lại chiến trường, ông dồn hết tâm lực, công sức vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để tặng con. Lúc rảnh rỗi, ông cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ: "Cứ mỗi lần nhớ con, ông lại đem cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt". Ông làm vậy như để vơi bớt nỗi ân hận, nuôi dưỡng tình cảm, mong chờ tới ngày chiến thắng trở về. Có thể nói, bé Thu là tất cả nỗi nhớ, tình yêu thương, mong đợi của ông Sáu. Tình cảm ấy được gửi gắm trọn vẹn vào chiếc lược ngà.
Nhưng thật đáng tiếc, ông Sáu đã hi sinh trong một trận càn quét lớn của địch. "Hai bàn tay ...không còn cất được cây lược cho con". Nhưng nhờ sự giúp đỡ của đồng đội, ông đã trao chiếc lược ngà lại cho người bạn của mình. Điều đó khẳng định rằng: Lời hứa, tình cảm của ông đối với đứa con là bất diệt. Người lính ấy dù đã mãi mãi khép lại cuộc đời của mình nhưng tình cha con vẫn sống mãi cùng với chiếc lược nhỏ bé.
Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" đã khắc họa thành công nhân vật ông Sáu, qua đó ngợi ca tình cha con sâu nặng, thắm thiết. Cốt truyện được xây dựng dựa trên sự phát triển tâm lí nhân vật, xoay quanh chiếc lược ngà - món quà kỉ niệm cho con. Đây như một dấu mốc quan trọng, đánh dấu những chuyển biến trong tình cảm của bé Thu và ông Sáu.
Ông Sáu là một người cha yêu thương con hết mực. Cũng giống như bao người khác, khi chào đón đứa con ra đời, ông mong mỏi được nhìn thấy con gọi một tiếng "ba" ấm áp, trìu mến. Vậy mà, do chiến tranh chia cắt, ông Sáu phải xa con khi con mới tròn một tuổi. Khoảng thời gian xa cách khiến ông Sáu luôn mong mỏi một khoảnh khắc được gần gũi, âu yếm con.
Khi được về thăm nhà, xuống xuồng, ông Sáu đã bật dậy, không chờ xuồng cập bến, ông đã nhảy thót lên bờ. Xuồng chưa cập bến đã vội vàng nhảy thót lên bờ. Xuồng chưa kịp cập bến đã vội vàng, xúc động, xô chiếc xuồng tạt ra. Bước chân tới nhà, tiếng gọi to một tiếng "Thu! Con": Tiếng gọi thốt ra từ sâu thẳm trái tim người cha, khao khát được gặp con bấy lâu nay. Thế nhưng, đáp lại sự mong chờ của ông Sáu, bé Thu lại giật mình, ngơ ngác, lạ lùng, mặt bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên. Trước thái độ hoang mang, lạ lẫm của con, ông Sáu vẫn đứng sững lại đó, gương mặt thoáng đượm đượm buồn rầu. Rồi suốt ba ngày nghỉ phép, ông chẳng dám đi đâu xa, chỉ quanh quẩn gần con. Song, ông càng cố gắng bao nhiêu, bé Thu càng lùi ra xa bấy nhiêu. Khi mẹ bảo mời ba vô ăn cơm thì nó chỉ nói trống không, mặc cho ông Sáu gợi ch