Nam Cao là cây bút hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì 1930 – 1945. Nghệ thuật xây dựng nhân vật chính là điểm đặc sắc trong các sáng tác của Nam Cao, giúp ông khắc họa sinh động hiện thực cuộc sống của những con người cùng khổ. Điều này được thể hiện rõ trong tác phẩm “Đời thừa” qua nhân vật Hộ.
“Đời thừa” được in trong tập truyện “Giăng sáng” (1943), nói lên tấn bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội cũ, họ phải chấp nhận một cuộc sống quẩn quanh, bế tắc, không lối thoát và dần chết mòn về tâm hồn. Họ là nạn nhân của cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn, của xã hội phi nhân đạo. Từ đó, nhà văn lên tiếng phê phán sâu sắc thực trạng xã hội đương thời đồng thời thể hiện niềm thương xót và trân trọng đối với những người trí thức có tâm.
Trước hết, ta thấy Hộ là một nhà văn có hoài bão lớn, có ý thức sâu sắc về nghề nghiệp. Anh khao khát được sáng tạo ra những tác phẩm thật sự có giá trị, những tác phẩm làm “rung động trái tim người”, “ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình”. Hộ say mê với nghề viết, anh dồn hết tâm huyết, sức lực của mình để viết. Với Hộ, văn chương là lẽ sống, là mục đích sống.
Nhưng Hộ cũng là một con người rất đỗi bình thường, anh cũng có nhu cầu mưu sinh, cũng phải lo lắng cho cuộc sống của gia đình nhỏ. Chính vì vậy mà anh rơi vào tình trạng bế tắc khi phải lựa chọn giữa lí tưởng cao đẹp của người nghệ sĩ và thực tế nghiệt ngã của cuộc sống. Cuối cùng, anh đành phải gác lại những ước mơ, khát vọng về những tác phẩm vĩ đại để viết những điều mà thị hiếu tầm thường của đám đông độc giả ưa thích, để kiếm tiền nuôi vợ con. Anh phải chịu đựng nỗi đau giằng xé giữa ước mơ cao đẹp và thực tế phũ phàng. Anh cảm thấy mình như một kẻ vô ích, một người thừa.
Hộ còn là một con người giàu tình yêu thương. Anh sẵn sàng cưu mang Từ, một người đàn bà bị chồng ruồng rẫy, đang lâm vào cảnh ôm con thơ đói khát vạ vật. Anh chấp nhận sự đay nghiến của mẹ, sự ghen tuông bạo lực của Từ chỉ vì yêu thương họ, muốn san sẻ với họ những bất hạnh trong cuộc sống. Tình yêu thương ấy khiến anh đau đớn khi phải nhẫn nhục chấp nhận sự chà đạp lên chính những điều mà anh coi là chân lí của cuộc đời.
Anh từng vui mừng khi Từ đẻ được đứa con khôi ngô, anh hôn hít, cưng nựng nó và thầm mong nó được hưởng mọi điều tốt đẹp trên đời. Nhưng sau đó, anh lại rơi vào bi kịch khi phải lạnh lùng, tàn nhẫn hành hạ nó, đạp đổ mọi ước mơ, hy vọng của đời nó chỉ vì cáu kỉnh. Tất cả những hành động tội lỗi ấy của Hộ đều do cái đói, cái nghèo đẩy anh vào. Qua đó, chúng ta càng thấy rõ hơn tấn bi kịch chung của tầng lớp trí thức tiểu tư sản trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, họ không được sống và khẳng định mình trong hoàn cảnh xã hội tối tăm, ngột ngạt.
Bên cạnh đó, Hộ cũng là một nhà văn có cái nhìn đúng đắn, sâu sắc về nghề nghiệp. Theo anh, một tác phẩm thật giá trị, phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn. Đây cũng là quan niệm mà Nam Cao luôn theo đuổi trong quá trình sáng tác.
Qua cách xây dựng nhân vật Hộ, Nam Cao đã cho chúng ta thấy được những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của ông. Nhà văn đã thành công trong việc miêu tả sâu sắc quá trình diễn biến nội tâm của nhân vật. Nhân vật Hộ có sự đối lập trong hai tính cách: một là tính cách của con người với khát vọng, đam mê cao đẹp, luôn sống nghiêm túc, có trách nhiệm; hai là tính cách của con người bị gánh nặng áo cơm ghì sát đất, phải chịu đựng những toan tính vụn vặt, phải cúi mình trước hoàn cảnh. Hai tính cách ấy mâu thuẫn song song cùng tồn tại trong một con người. Nam Cao đã khéo léo sắp xếp các tình tiết, sự kiện sao cho người đọc thấy được quá trình giằng xé dữ dội trong tâm trạng của nhân vật Hộ. Ngôn ngữ trong tác phẩm giản dị, mộc mạc, gần gũi, phù hợp với đề tài cuộc sống thường nhật.
Như vậy, qua nhân vật Hộ, nhà văn Nam Cao đã phơi bày chân thực cuộc sống khốn khổ của tầng lớp trí thức tiểu tư sản trước Cách mạng, đồng thời thể hiện niềm thương xót, trân trọng đối với những người giống như Hộ. Tác giả cũng lên tiếng phê phán xã hội phi nhân đạo đã đẩy người nghệ sĩ vào tình trạng bi kịch tinh thần, không được sống và cống hiến cho nghệ thuật chân chính.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể thấy rằng “Đời thừa” là một tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm đã góp phần làm nên tên tuổi của Nam Cao trong nền văn học Việt Nam.