Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng tiêu biểu, ông đã có hơn bảy mươi năm hoạt động và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Mỗi tác phẩm của ông đều gắn với những giai đoạn lịch sử của dân tộc. Bài thơ Từ ấy đã ghi lại khoảnh khắc đẹp đẽ khi tác giả tìm thấy lí tưởng của đời mình.
Bài thơ được rút ra từ tập thơ cùng tên, được sáng tác khi Tố Hữu mới mười tám tuổi. Mở đầu bài thơ, tác giả đã dùng ngôn ngữ ngọt ngào, ấm áp để diễn tả niềm vui sướng, hạnh phúc khi bắt gặp ánh sáng của cuộc đời mình:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Tác giả đã sử dụng hình ảnh ẩn dụ "mặt trời chân lý", "vườn hoa lá" để thể hiện lí tưởng cách mạng như nguồn sáng mới làm thay đổi con người và cuộc sống của họ. Tác giả sử dụng các động từ mạnh như "bừng", "chói" để diễn tả sức mạnh khơi gợi, tác động lớn lao của lí tưởng đối với cuộc đời nhà thơ. Lí tưởng không chỉ soi sáng tâm hồn mà còn cả nhận thức trí tuệ của nhà thơ. Nó đến bất ngờ nhưng thấm thía sâu sắc, nó chiếu sáng mọi ngõ ngách tăm tối trong tâm hồn cũng như đem lại sức sống mới cho cơ thể trẻ trung.
Nhà thơ đã ví tâm hồn khô cằn của mình như "cỏ dại" - loài cỏ mãnh liệt và khỏe khoắn, nó vươn lên mạnh mẽ ngay ở những nơi đất đai cằn cỗi, thiếu dinh dưỡng. Khi giác ngộ lí tưởng, nhà thơ như tìm được ý nghĩa của đời mình. Ông tự hứa với lòng mình sẽ cống hiến hết mình cho cách mạng với thái độ quyết liệt nhất:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Nhà thơ tự nguyện "buộc" lòng mình với mọi người để tạo thành một khối đoàn kết vững chắc. Ông muốn tình cảm của mình phải hướng đến toàn bộ quần chúng nhân dân cần lao, đó là những con người không chỉ thuộc tầng lớp của mình mà còn là những số phận nhỏ bé, những con người đau khổ, những kiếp đời tội nghiệp. Ông muốn lan tỏa tình yêu thương, tấm lòng mình đến với tất cả mọi người để tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Sự thay đổi về nhận thức kéo theo sự thay đổi về tình cảm. Đó chính là tình yêu thương, sự cảm thông, chia sẻ giữa người với người, đặc biệt là những người cùng khổ, những người thuộc tầng lớp nhân dân lao động nghèo khó. Nhà thơ mong muốn hòa cái "tôi" cá nhân vào với cái "ta" chung của cộng đồng rộng lớn. Cái "tôi" không còn tách rời, độc lập nữa mà hòa hợp với nhiều cái "ta" khác để tạo thành cái "ta" chung của xã hội. Đây chính là sự thay đổi nhận thức, tình cảm của những người đã được giác ngộ lí tưởng cách mạng.
Khổ thơ cuối cùng khép lại bài thơ với âm hưởng lạc quan, tin tưởng vào tương lai phía trước:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ
Tác giả khẳng định mình đã trở thành một thành viên của đại gia đình quần chúng nhân dân cần lao, không còn là một thanh niên tiểu tư sản nữa. Ở đây có sự sóng đôi giữa các số từ chỉ lượng: "vạn" (chỉ số lượng vô cùng nhiều), "kiếp" (chỉ số lượng vô hạn) để diễn tả mối quan hệ ruột thịt giữa nhà thơ với nhân dân. Đồng thời, tác giả sử dụng các từ "con", "em", "anh" hai lần như muốn nhấn mạnh, khẳng định vị thế bình đẳng, thân thiết, gần gũi của mình với quần chúng nhân dân lao động.
Bằng giọng thơ vừa sôi nổi, vừa tha thiết, sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ và ngôn ngữ giàu hình ảnh, từ ngữ chọn lọc, Tố Hữu đã thể hiện chân thực và sinh động niềm vui sướng, hạnh phúc của bản thân khi tìm thấy lí tưởng. Qua đó, tác giả cũng bộc lộ sự chuyển biến về mặt tinh thần và tình cảm của minh sau khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin.