phần:
câu 1: : Thể loại văn bản của đoạn trích trên là nhật kí.
câu 2: Câu hỏi: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên?(0.5đ)
Phương pháp: Căn cứ các phương thức biểu đạt đã học
Giải chi tiết: Phương thức biểu đạt Nghị luận/phân tích 0.5
câu 3: : Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận/Phương thức nghị luận.
câu 4: Câu hỏi "Lại chuyển vận gạo, muối, vải, đá luôn hai ngày. Mình khuân vác đã khá khoẻ rồi. Đi núi, cũng nhanh hơn, đỡ mệt hơn." sử dụng biện pháp tu từ liệt kê. Tác giả liệt kê các loại hàng hóa cần vận chuyển ("gạo", "muối", "vải", "đá") cùng với việc miêu tả sự cải thiện về sức khỏe ("khá khỏe"), tốc độ di chuyển ("nhanh hơn") và mức độ mệt mỏi ("đỡ mệt hơn"). Việc liệt kê này giúp tăng cường tính cụ thể, rõ ràng cho câu văn, đồng thời nhấn mạnh những tiến bộ mà nhân vật đã đạt được trong quá trình lao động vất vả.
Phản ánh:
Qua bài tập này, học sinh có thể hiểu rõ hơn về khái niệm và tác dụng của biện pháp tu từ liệt kê. Bên cạnh đó, việc phân tích ngữ cảnh và mối liên hệ giữa các yếu tố trong câu văn giúp học sinh nắm bắt được ý nghĩa sâu sắc hơn của biện pháp tu từ này.
câu 5: : Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên là nghị luận/phương thức nghị luận.
câu 6: : Phương thức biểu đạt chính: nghị luận.
: Theo tác giả, "khả năng của người ta" là những tiềm lực vốn có trong mỗi cá nhân như sức khỏe, trí tuệ,...
: Biện pháp tu từ liệt kê: "cực nhọc không đáng sợ", "thiên ơi! cha sẽ mạnh dạn ném con vào cuộc đời và cuộc đời sẽ luyện cho con chóng hơn cha luyện". Tác dụng: nhấn mạnh ý nghĩa tích cực của việc trải nghiệm thực tế đối với sự trưởng thành của con người; đồng thời bộc lộ niềm tin tưởng mãnh liệt của người cha dành cho đứa con.
: Tư tưởng mà người cha muốn truyền tải tới con qua lời thoại trên đó là: Con cần phải tự mình dấn thân, trải nghiệm để rèn luyện bản lĩnh sống.
câu 7: Trong nền văn học Việt Nam, nhà văn Nam Cao được biết đến là một cây bút tài hoa chuyên viết truyện ngắn, truyện dài. Những tác phẩm của ông đều gắn liền với số phận của người nông dân, người tri thức nghèo khổ, tầng lớp cùng đinh trong xã hội xưa. Họ đều là những con người hiền lành, lương thiện nhưng bị cái xã hội thối nát đẩy vào bước đường cùng, phải đối mặt với những bi kịch đau đớn. Không chỉ vậy, nhà văn còn khai thác rất sâu về diễn biến tâm lí nhân vật, từ đó làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn tiềm tàng của họ. Đoạn trích "Nhật kí ở rừng" cũng là một minh chứng tiêu biểu cho phong cách văn chương đặc sắc ấy của Nam Cao.
Đoạn trích kể về hai chị em Liên và An từng sống ở Hà Nội trước khi nạn đói hoành hành và bố Liên mất việc nên cả gia đình phải về quê. Kể từ đó, Liên phải cùng mẹ mở một quán hàng nhỏ để kiếm sống qua ngày. Mặc dù cuộc sống khó khăn, vất vả nhưng hai chị em Liên vẫn luôn háo hức chờ đón chuyến tàu đêm chạy từ Hà Nội về điểm dừng cuối cùng là ga Liễu Âm. Chuyến tàu mang đến một thế giới khác, một vùng ánh sáng khác xóa tan đi sự tĩnh lặng, tăm tối nơi phố huyện.
Sau khi đọc xong đoạn trích Nhật kí ở rừng, em cảm thấy ấn tượng nhất với diễn biến tâm trạng của hai chị em Liên và An khi chờ tàu đi qua. Chỉ với vài nét miêu tả, nhà văn Nam Cao đã khéo léo lột tả được hết những cung bậc cảm xúc của hai nhân vật này.
Hai chị em Liên và An vốn sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, vì vậy chúng luôn mang trong mình niềm hi vọng, sự háo hức mỗi khi chuyến tàu đi qua. Chúng mong ngóng từng giây từng phút bởi tàu đi qua sẽ giống như một thế giới khác xuất hiện, một thế giới mới lạ, sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Khác hẳn với bức tranh buổi chiều muộn nơi phố huyện với bóng tối bao phủ, không gian tĩnh lặng, heo hút.
Khi tàu đến, lòng hai chị em bỗng dưng rộn ràng, vui sướng đến kì lạ. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vượt qua, cò An thì căng mắt ra để nhìn cho rõ. Cả hai đều chăm chú đến mức không chớp mắt để có thể nhìn thấy rõ nhất những gì đang diễn ra. Tàu đến làm cho đêm tối xung quanh dường như bị xua tan, ánh sáng tỏa ra từ các cửa sổ toa tàu chiếu sáng cả góc đường, những đồng và kền lấp lánh trên ngực người lái tàu. Tiếng xe rít lên, tiếng hành khách ồn ào, tiếng bánh xe rùn rần liếp biếp,... tất cả những âm thanh ấy khiến cho hai đứa trẻ cảm thấy to lớn, rầm rộ.
Liên dắt em đứng sững nhìn theo cố gắng nhìn thấy cái chấm nhỏ an toàn của chiếc đèn xanh treo trên toa tàu cuối cùng. Khi tàu đi rồi, Liên vẫn đứng nhìn theo mãi cho đến lúc cái chấm nhỏ đó chỉ còn là một chấm đen lùi dần khuất sau rặng tre. Lúc này, Liên mới thôi nhìn và thở dài một tiếng. Đó là một tiếng thở hụt hơi nhưng lại chứa đựng biết bao nhiêu cảm xúc. Có lẽ Liên đang tiếc nuối, buồn bã vì chuyến tàu đã đi xa, cuộc sống bình thường đã trở lại. Phố huyện lại chìm vào màn đêm tối tăm, vắng lặng.
Chỉ với một tiếng thở dài nhưng chúng ta có thể cảm nhận được biết bao nhiêu cảm xúc đan xen lẫn lộn trong tâm trạng của Liên. Đó là sự sung sướng, hạnh phúc khi được chiêm ngưỡng vẻ đẹp lung linh, huyền ảo của chuyến tàu, là sự tiếc nuối, buồn bã khi tàu đã đi xa. Nhưng có lẽ, sâu thẳm trong trái tim của Liên vẫn là niềm khao khát, ước mong được sống ở một thế giới khác, một thế giới tốt đẹp hơn, không còn nghèo đói, lam lũ.
Qua diễn biến tâm trạng của hai chị em Liên, nhà văn Nam Cao muốn gửi gắm đến bạn đọc một thông điệp sâu sắc. Rằng cuộc sống luôn chứa đựng những điều bất ngờ, thú vị. Vì vậy, chúng ta đừng bao giờ ngừng hi vọng, ngừng mơ ước về một tương lai tốt đẹp. Hãy cứ mơ ước và nỗ lực hết mình để đạt được mục tiêu mà bản thân đặt ra. Đừng vì những khó khăn, thử thách trước mắt mà nản chí, bỏ cuộc.
Bên cạnh đó, đoạn trích còn giúp chúng ta hiểu hơn về tâm lí của những người dân nghèo khổ, sống trong cảnh áp bức, bóc lột. Họ luôn khao khát được vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, không còn nghèo đói, lam lũ. Tuy nhiên, do hoàn cảnh xô đẩy, họ buộc phải chấp nhận và sống chung với nó. Điều đó khiến cho tâm trạng của họ luôn chất chứa đầy những mâu thuẫn, giằng xé.
Như vậy, chỉ với một đoạn trích ngắn ngủi nhưng nhà văn Nam Cao đã khắc họa thành công diễn biến tâm trạng của hai chị em Liên. Qua đó, gửi gắm đến bạn đọc biết bao nhiêu bài học ý nghĩa, sâu sắc.