Hàn Mặc Tử là một nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Ông có nhiều đóng góp quan trọng vào quá trình hiện đại hóa thơ ca Việt Nam. Thơ Hàn Mặc Tử rất đặc biệt, nó như trào ra từ máu và nước mắt, mang đầy đau thương, u uất và tuyệt vọng. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những vần thơ tràn ngập niềm tin yêu cuộc sống, rạo rực khát khao giao cảm với đời, với người. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ ấy của Hàn Mặc Tử. Qua bức tranh phong cảnh thôn Vĩ, nhà thơ đã bộc lộ tâm trạng nhớ mong tha thiết, nỗi buồn cô đơn và khao khát hạnh phúc lứa đôi.
Mở đầu bài thơ là một hoài niệm mênh mang về cảnh và người thôn Vĩ. Bức tranh thơ đẹp, còn tình người thì tha thiết nhớ mong:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền."
Câu hỏi tu từ "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" vừa là lời trách móc nhẹ nhàng, vừa là lời mời gọi tha thiết của cô gái thôn Vĩ. Đồng thời cũng là lời tự vấn của chính nhà thơ. Từ "chơi" sử dụng trong câu hỏi cho thấy một sự thân mật, gần gũi giữa chủ thể trữ tình và nhân vật "anh". Nhà thơ muốn trở về thăm thôn Vĩ để gặp gỡ người xưa, cảnh cũ nhưng lại ngập ngừng, băn khoăn. Ba câu thơ tiếp theo là bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ hiện lên qua cái nhìn tha thiết, mang vẻ đẹp của "hàng cau", "vườn ai mướt quá xanh như ngọc", "lá trúc che ngang mặt chữ điền". Ánh nắng được miêu tả ở nhiều góc độ khác nhau: "nắng hàng cau", "nắng mới lên", "nắng sáng" cho thấy màu sắc đa dạng của ánh nắng. Đó là màu "nắng mới lên" hồng dịu, trong trẻo chứ không phải cái nắng gay gắt, chói chang của buổi ban trưa. Màu xanh của cây cỏ làm cho bức tranh thêm sức sống. Tác giả sử dụng màu xanh "như ngọc" để diễn tả sức sống, vẻ đẹp thiên nhiên nơi thôn Vĩ. Khuôn mặt chữ điền lấp ló sau hàng trúc đã gợi lên vẻ đẹp phúc hậu, hiền lành.
Khổ thơ thứ hai là những trăn trở, dự cảm về mối tình đơn phương của nhà thơ. Giọng thơ chùng xuống, mang nặng nỗi buồn:
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Hai câu thơ đầu gợi lên hình ảnh thiên nhiên chia lìa, xa cách: gió thổi mây bay nhưng ở đây gió mây lại chia lìa, đôi ngả. Dòng sông Hương lững lờ trôi, "buồn thiu" như ngưng đọng lại. Hoa ngô (hoa bắp) khẽ lay trong gió nhưng không phải là "gió ấp iu bông nắng đỏ" mà là "dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay". Cảnh vật đều thấm đẫm nỗi buồn sâu kín của thi nhân. Nỗi buồn ấy càng được tô đậm hơn qua câu hỏi tu từ: "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?". Thuyền và trăng là hai hình ảnh luôn sóng đôi, gắn bó với nhau. Trong cõi sâu thẳm của tâm hồn, Hàn Mặc Tử luôn mong ngóng chờ đợi ánh trăng kia như chờ đợi hơi ấm của tình người.
Bài thơ kết thúc bằng dấu chấm lửng, tạo ấn tượng khó quên cho người đọc. Qua bài thơ, ta hiểu hơn về tâm sự thầm kín của nhà thơ, đồng thời trân trọng hơn những ước mơ, khát vọng mà ông gửi gắm.