câu 1. Bài thơ "Tiến sĩ giấy" được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ tuân thủ các quy tắc về cấu trúc, vần và niêm luật của thể thơ này.
- Cấu trúc: Bài thơ gồm 8 câu, mỗi chữ, tạo thành 2 phần: đề, thực, luận, kết.
- Vần: Các , 2, 4, 6, 8 gieo vần bằng ở chữ cuối ("giấy", "cải", "danh", "choẹ", "chơi").
- Niêm: Các , 2, 4, 6, 8 niêm với nhau theo luật bằng trắc.
- Luật: Bài thơ sử dụng luật bằng trắc, cụ thể là luật trắc. Chữ thứ hai của là thanh trắc ("cũng"), chữ thứ hai của là thanh bằng ("sao").
Ngoài ra, bài thơ còn sử dụng phép đối giữa các cặp -4, 5-6 để tăng tính nhịp nhàng, hài hòa cho bài thơ.
câu 2. Các chi tiết miêu tả ông tiến sĩ giấy trong bài thơ "Tiến sĩ giấy" của Nguyễn Khuyến bao gồm:
- Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai: Ông tiến sĩ giấy được trang bị đầy đủ những vật dụng cần thiết để thể hiện vai trò và địa vị của mình như cờ, biển, cân đai. Điều này cho thấy sự giả tạo, phô trương của nhân vật này.
- Cũng gọi là ông nghè, ông cống: Ông tiến sĩ giấy tự xưng mình là ông nghè, ông cống, những chức danh cao quý nhất trong xã hội phong kiến. Tuy nhiên, đây chỉ là cách gọi mỉa mai, châm biếm của tác giả đối với sự giả dối, không thực chất của nhân vật này.
- Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng: Ông tiến sĩ giấy được làm bằng giấy, một thứ vật liệu mỏng manh, dễ vỡ. Điều này ẩn dụ cho sự yếu đuối, bất lực của nhân vật này trước những vấn đề lớn lao của cuộc sống.
- Nét son điểm rõ mặt văn khôi: Ông tiến sĩ giấy được tô son đỏ trên khuôn mặt, gợi liên tưởng đến những người có tài năng, trí tuệ. Tuy nhiên, đây lại là một sự giả mạo, bởi ông tiến sĩ giấy chỉ là một món đồ chơi, không hề có tài năng hay trí tuệ gì cả.
- Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ: Ông tiến sĩ giấy mặc xiêm áo, nhưng lại rất nhẹ nhàng, điều này cho thấy sự thiếu sức nặng, thiếu thực chất của nhân vật này.
- Cái giá khoa danh ấy mới hời: Cái giá trị của ông tiến sĩ giấy chỉ là một món đồ chơi rẻ tiền, không đáng giá so với những gì mà nó được khoác lên mình.
- Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ: Ông tiến sĩ giấy được đặt ngồi trên chiếc ghế tréo, dưới chiếc lọng xanh, giống như một vị quan lại quyền uy. Tuy nhiên, đây chỉ là hình ảnh giả tạo, nhằm đánh lừa thị giác của người xem.
Qua việc sử dụng các chi tiết miêu tả cụ thể, sinh động, tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh ông tiến sĩ giấy với vẻ ngoài hào nhoáng, sang trọng nhưng bên trong rỗng tuếch, vô nghĩa. Bài thơ mang ý nghĩa phê phán sâu sắc về thói hư tật xấu của con người thời bấy giờ, đồng thời khẳng định giá trị đích thực của tri thức và đạo đức.
câu 3. Trong bài thơ "Tiến sĩ giấy" của Nguyễn Khuyến, hai câu thơ "Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng/ Nét son điểm rõ mặt văn khôi" sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ và hoán dụ để thể hiện sự tương phản giữa giá trị thực tế và giá trị ảo tưởng.
- Ẩn dụ: "Thân giáp bảng" và "mặt văn khôi" được ẩn dụ bằng "mảnh giấy" và "nét son". Tác giả đã sử dụng hình ảnh cụ thể (giấy, mực) để ám chỉ những thứ vô cùng quan trọng như công danh, địa vị, tri thức. Điều này tạo ra sự đối lập giữa vật chất tầm thường và giá trị tinh thần cao quý.
- Hoán dụ: "Giấy" và "son" là những vật dụng gắn liền với việc viết lách, thi cử, tượng trưng cho con đường khoa cử, sự nghiệp. Việc sử dụng hoán dụ nhằm nhấn mạnh vai trò quyết định của chữ nghĩa, kiến thức trong việc xác định vị trí xã hội của mỗi người.
Thông qua hai hình ảnh thơ này, tác giả muốn phê phán sự phù phiếm, hão huyền của danh vọng, đồng thời khẳng định giá trị đích thực của tri thức, tài năng.