Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo lỗi lạc có "con mắt nhìn thấu sáu cõi" và "tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời".
Nguyễn Du, tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 (Ất Dậu) trong một gia đình có nhiều đời và nhiều người làm quan to dưới triều Lê, Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm từng giữ chức Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, một người phụ nữ Kinh Bắc có tài xướng ca.
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
(Dịch nghĩa:
Cắp ngang ngọn giáo trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.)
Phần lớn cuộc đời Nguyễn Du sống phiêu bạt, nhiều năm đói nghèo cực khổ, vài năm hưng thịnh ngắn ngủi. Mười năm chìm nổi nơi đất Bắc (1786-1796), bốn năm lẻ chốn ải xa (1796-1802), rồi chín năm gió bụi lại phiêu dạt về quê vợ, quê chồng (1802-1812). Chỉ khoảng sáu, bảy năm cuối đời, ông mới tạm sống yên ổn ở kinh đô Huế. Một cuộc đời sóng gió, phiêu bạt, nhiều đau thương, từng chứng kiến bao nhiêu nỗi hoạn nạn, cay đắng, Nguyễn Du gần gũi thông cảm với những người nghèo khổ, cùng chịu đựng với họ những cơn giông bão ghê gớm. Cuộc đời đó tạo cho Nguyễn Du một vốn sống phong phú, tâm hồn ông chứa chan thương cảm rung động trước mọi nỗi vui buồn của thế gian.
Sáng tác của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị cả chữ Hán và chữ Nôm: Sáng tác bằng chữ Hán có:
Thanh Hiên thi tập (78 bài),
Bắc hành tạp lục (125 bài),
Nam trung tạp ngâm (40 bài)...
Sáng tác bằng chữ Nôm có:
Văn chiêu hồn (cuối thế kỉ XVIII),
Thác lời trai phường nón (1802),
Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu (1803),
Truyện Kiều (giữa thế kỉ XIX).
Trong số đó, Truyện Kiều là kiệt tác của nền thi ca cổ điển Việt Nam, xứng đáng là "tập đại thành" của nền văn học cũ. Nó được viết bằng ngôn ngữ bậc thầy, vừa giàu hình ảnh phi thường, vừa đậm chất trữ tình, thấm đẫm giá trị nhân đạo và tinh thần dân tộc.
Ngoài ra, Truyện Kiều còn là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học các thời đại trước, Đặng Thai Mai viết: "Một điều kì diệu nữa là trong bản dịch tiếng Pháp Truyện Kiều ra đời năm 1920, ở ngay câu mở đầu bản dịch, tác giả đã dịch gần đúng câu thơ nổi tiếng của Nguyễn Du: "Trời đâu riêng phú cho người..." ("Il n'a pas été donné au homme de seul privilège de vivre").
Về truyện thơ Nôm, ngoài Truyện Kiều còn có Văn tế thập loại chúng sinh (còn gọi là Văn chiêu hồn) được viết ít lâu sau khi Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc (1813-1814), không rõ năm sáng tác. Đây là tác phẩm mang tính nhân đạo sâu sắc. Với cảm hứng xót thương, lá cẩm, đồng cảm với những linh hồn tài hoa bạc mệnh, ông đã viết nên những dòng thơ thật ai oán, xót xa:
"Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung."
Ông còn có một số bài thơ chữ Hán như: "Bài ca những điều trông thấy" (Cảm hứng nhân sinh), "Bài ca người gảy đàn đất Long Thành", "Giọt lệ thương xót người đàn bà họ Phùng"... đều nói lên nỗi đau khổ của những người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội phong kiến.
Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã đưa nền văn học cổ điển Việt Nam đạt đến đỉnh cao rực rỡ, đồng thời nó cũng tạo ra ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn học Đông Á. Cùng với Truyện Kiều, tên tuổi của Nguyễn Du đã trở thành biểu tượng của văn học Việt Nam trong không gian văn hóa thế giới. Ông được tôn vinh là Đại thi hào dân tộc và được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.