Trần Đăng Khoa nổi tiếng là một nhà thơ sáng tác thơ từ rất nhỏ tuổi, trong số đó bài thơ "Trăng ơi... từ đâu đến?" đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Tác phẩm được in trong tập Góc sân và khoảng trời (1968).
Mở đầu bài thơ, tác giả đã đưa vào đó hình ảnh vầng trăng gắn liền với tuổi thơ của mỗi người, đặc biệt là đối với trẻ em vùng nông thôn thì lại càng gần gũi và thân quen hơn cả:
"Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay biển xanh diệu kỳ
Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi"
Hình ảnh vầng trăng được hiện lên thật sinh động và tươi mới. Nó giống như một đứa trẻ tinh nghịch đang chạy nhảy khắp mọi nơi, mang theo ánh sáng dịu dàng chiếu rọi khắp mọi nẻo đường. Vầng trăng ở đây được so sánh với mắt cá, luôn tròn đầy và sáng lấp lánh. Qua đó, ta thấy được tâm hồn nhạy cảm và trí tưởng tượng phong phú của nhà thơ.
Những câu hỏi tu từ được đặt ra ở đầu mỗi khổ thơ sau khi nhắc lại hai lần tựa đề của tác phẩm, giống như một lời hát ru ngọt ngào vậy:
"Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay biển xanh diệu kì
Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ lên trước nhà
Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ một sân chơi
Trăng bay như quả bóng
Đứa nào đá lên trời
Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ lời mẹ ru
Thương Cuội không được học
Hú gọi trâu đến giờ!"
Vầng trăng ở trên cao được ví như một quả bóng được "đá lên trời" từ một sân chơi của trẻ em hay là từ lời mẹ ru thương Cuội không được học, hú gọi trâu đến giờ. Tất cả đều là những hình ảnh quen thuộc trong tuổi thơ của mỗi người, điều này cho thấy vầng trăng rất gần gũi, thân thiết với con người. Đặc biệt nhất là hình ảnh:
"Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ một sân chơi
Trăng bay như quả bóng
Đứa nào đá lên trời"
Ở đây, vầng trăng được ví như một quả bóng được lũ trẻ vô tư "đá lên trời". Hình ảnh so sánh ấy vừa gợi hình ảnh quả bóng lăn trên sân cỏ thực tế, vừa gợi hình dáng tròn đầy của vầng trăng. Hai câu cuối của khổ thơ sử dụng biện pháp tu từ liệt kê, với những từ ngữ chỉ đối tượng khác nhau: "đứa nào", "trẻ con", "con gà", "cái cây", "sông Ngân Hà". Điều này nhằm diễn tả sự tò mò, thích thú của trẻ em khi ngắm nhìn vầng trăng.
Cuối cùng, tác giả đã nêu lên ý nghĩa của vầng trăng đối với mỗi người:
"Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ câu đố vui
Trăng đi khắp mọi miền
Trăng vòng qua cổ chuyền
Trăng ơi có nơi nào
Chim không sợ cành cong
Câu hỏi nhà không lỏng
Gặp nhau giữa vườn vàng
Trăng ơi có nơi nào
Người không sợ bạo chúa
Rau không mọc trên sàn
Lúa không phơi trước cửa
Trăng ơi có nơi nào
Như mặt biển ban trưa
Không có gió cũng chẳng mưa
Cũng chẳng có bão từng ngày
Trăng ơi có nơi nào
Như mắt cá huy hoàng
Đêm đêm chợtààà sáng
Trăng ơi có nơi nào
Như mũi cà rem
Cứ nhọn lừ thôi
Trăng ơi có nơi nào
Như que kẹo bông rơi
Không cầm mà vẫn dính
Trăng ơi có nơi nào
Cho cuộc đời ngắn lại
Dài hơn vạn kiếp xa
Trăng ơi có nơi nào
Cho con người sát lại
Quãng băng mỏng giữa ta."
Nhà thơ đã tự đưa ra hàng loạt những câu hỏi tu từ để rồi lại tự trả lời, khẳng định rằng vầng trăng sẽ mãi đi theo con người, gắn bó mật thiết với chúng ta. Từ đó, ông mong muốn vầng trăng sẽ đem lại cho con người niềm vui, hạnh phúc; xóa tan đi những đau khổ, bất công trong cuộc sống. Khổ thơ cuối cùng khép lại bằng một câu hỏi tu từ, thể hiện ước mơ và khát vọng của nhà thơ về một thế giới không còn chiến tranh, không còn đói nghèo và bất công:
"Trăng ơi có nơi nào
Cho con người sát lại
Quãng băng mỏng giữa ta."
Bài thơ "Trăng ơi... từ đâu đến?" của Trần Đăng Khoa đã sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi, giàu tính biểu cảm. Hình ảnh thơ sinh động, hấp dẫn, gợi lên nhiều liên tưởng thú vị. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng thành công các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ,... để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho bài thơ.
Có thể thấy, bài thơ "Trăng ơi... từ đâu đến?" là một tác phẩm hay và ý nghĩa. Thông qua hình ảnh vầng trăng, tác giả đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, quê hương tha thiết và khát vọng hòa bình của mình. Đồng thời, bài thơ cũng gửi gắm tới bạn đọc thông điệp về việc trân trọng những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống.