Đỗ Phủ (712-770) là một nhà thơ hiện thực vĩ đại của Trung Quốc với hàng ngàn bài thơ phong phú, sâu sắc, cảm động. Thơ ông là tấm gương phản chiếu cuộc sống đầy đau khổ, cực nhọc của nhân dân thời đại ông. Ông cũng là nhà thơ nổi tiếng viết về thiên nhiên, miêu tả thiên nhiên chân thật, tinh tế và tuyệt đẹp. Bài thơ Thu Hứng là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc, thể hiện rõ tài năng của Đỗ Phủ.
Hai câu đề đã mở ra khung cảnh mùa thu ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang:
"Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm."
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.)
Cảnh tượng vào thu được gợi lên bằng hình ảnh "rừng phong", "lộc giắt đầy trên lưng bấy nhiêu". Rừng phong đã trơ cành khẳng khiu, trụi lá, gợi sự buốt giá của mùa đông. Hạt sương móc trắng xóa, ướt đẫm, nặng nề buông xuống làm cảnh vật thêm tiêu điều, xác xơ. Câu thơ thứ hai, tác giả nhắc tới "Vu sơn, Vu giáp" - dãy núi cao ngất trùng điệp ở thượng nguồn Trường Giang và là hình ảnh quen thuộc trong thơ Đường. Mùa thu, khung cảnh nơi đây âm u, hiu hắt, không có chút ánh sáng, gây cảm giác ngột ngạt, bí bách. Qua nét vẽ của Đỗ Phủ, khung cảnh mùa thu ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang hiện lên thật ám ảnh, hiu hắt.
Bức tranh thu tiếp tục được khắc họa ở hai câu thực:
"Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm."
(Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)
Sóng lớn dồn lên, chìm ngập giữa dòng sông, độ sâu của dòng sông dường như vô hạn. Trên mặt sông còn hiện lên hình ảnh mây sa, biểu hiện thời tiết thất thường, mịt mù, khó quan sát. Ở câu thơ bên cạnh, tác giả lại vẽ ra hình ảnh mây sà xuống thấp tới mức như "đùn" từ dưới mặt đất lên, bao lấy cả cửa ải xa xa. Hai câu thơ đối nhau, cùng vẽ ra bức tranh thiên nhiên hùng vĩ mà cũng hết sức hiu hắt, dữ dội. Bốn câu thơ đầu tiên, tác giả chủ yếu miêu tả cảnh thu ở vùng rừng núi và vùng sông nước, qua đó thấy được tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của nhà thơ.
Ở hai câu luận, tác giả tiếp tục khắc họa khung cảnh mùa thu ở chốn thôn dã:
"Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm."
(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)
Hoa cúc là loài hoa tượng trưng cho mùa thu, nó gợi lên những xúc cảm mạnh mẽ khiến tác giả phải rơi lệ. Cây tùng cứng cáp, dẻo dai tượng trưng cho những đấng trượng phu, nhưng trong thơ của Đỗ Phủ lại gợi đến con người miền quê, những người luôn gắn bó với quê hương. Từ xưa đến nay, hoa cúc và cây tùng thường đi đôi với nhau bởi chúng đều là những loài cây mạnh mẽ nhưng lại chứa chan nhiều niểm ưu tư, suy nghĩ. Hai hình ảnh này kết hợp với nhau thành bộ tứ quý "tùng - cúc - trúc - mai" rất được ưa chuộng trong thơ ca cổ điển. Tác giả đã khéo léo đưa bộ tứ quý này vào thơ, đồng thời lồng ghép cảm xúc lưu luyến, nhớ nhung quê nhà.
Hai câu cuối kết thúc mạch cảm xúc toàn bài thơ:
"Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm."
(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)
Âm thanh sinh động duy nhất trong bài thơ xuất hiện ở câu thơ cuối, phá tan bầu không khí tĩnh lặng, u sầu. Tiếng chày đập vải vang lên giữa không gian xao xác của gió và sương gợi lên nỗi nhớ quê hương da diết, khôn nguôi. Đó là tiếng đập vải để chuẩn bị quần áo cho mùa thu đông sắp tới hay cũng chính là tiếng lòng thổn thức vì nhớ quê nhà?
Bài thơ Thu Hứng của Đỗ Phủ đã phác họa bức tranh thiên nhiên mùa thu ảm đạm, hắt hiu và là bức tranh tâm trạng thu nhỏ của tác giả. Trong đó chứa đựng tình yêu quê hương, nỗi nhớ nhà và niềm trắc ẩn với những thân phận phải sống tha phương, lang bạt suốt năm canh.