Phân tích đoạn trích Ngục Kom Tum (Trích Ngục Kom Tum của Lê Văn Hiến)
Bình giảng bài thơ Tống biệt hành
Phân tích đoạn trích Mưu trí của Chiêu Vũ của Nguyễn Khoa Chiêm.ông - Nguyễn Đình Chiểu
Cảm nghĩ về Cuộc đấu tranh lưu huyết ngày 12-12-1931nh - Cao Bá Quát
Bài đọc tham khảo về tập phóng sự Việc làng của Ngô Tất Tố
Phân tích bài phóng sự Góc chiếu giữa đình của Ngô Tất Tố.
Phân tích đoạn thơ sau đây Sở Bá Vương ngồi yên....bận lòng vì phận bạc.
Bình giảng bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm.
Bình giảng khổ thơ đầu bài Tống biệt hành của Thâm Tâm
Phân tích bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm
Bình giảng bài thơ Gánh nước đêm của Trần Tuấn Khải
Phân tích bài thơ Bài ca lưu biệt của Huỳnh Thúc Kháng.
Cảm nghĩ về bài Đốc chiến Chiêu Vũ trích trong Nam triều công nghiệp diễn chí
Người ta thấy ở văn xuôi Nguyễn Ái Quốc “một nghệ thuật trần thuật linh hoạt độc đáo và một ngòi bút châm biếm vừa sâu sắc, đầy tính chiến đấu, vừa tươi tấn, hóm hỉnh".
Hãy chứng tỏ điều đó qua truyện ngắn Vi hành
BÀI LÀM
Nghệ thuật nhiều khi dường như cũng có cái “định xe vô lượng" của nó. Trong văn chương, có những tác phẩm là sự đan xen, nối tiếp từ cảnh này sang cảnh khác, giọng điệu này sang giọng điệu khác, kết rồi mà còn như văn mở ra những điều mới mẻ. Vi hành của Nguyễn Ái Quốc là một tác phẩm như vậy. Ngòi bút tác giả trong truyện là một ống kính vạn hoa mà ở đó mọi sự đều biến ảo linh động và toát lên những ý nghĩa tư tưởng cao đẹp. Truyện tiêu biểu cho văn xuôi Nguyền Ái Quốc với ''một nghệ thuật trần thuật độc đáo và một ngòi bút châm biếm vừa sâu sắc, đầy tính biến tấu, vừa tươi tắn, hóm hỉnh".
Vi hành là tác phẩm được sáng tác vì mục đích cách mạng, vì tinh thần chiến đấu. Nó nằm trong hệ thống những bài văn, bài báo mà Nguyễn Ái Quốc viết để tố cáo chân tướng của tên vua bù nhìn Khải Định khi y sang Pháp dự cuộc đấu xảo thuộc địa ở Mác-xây năm 1922. Qua truyện, tác giả muốn phơi bày bộ mặt của kẻ tay sai thật chẳng khác gì hơn một tên hề lố lăng, vi hành lén lút và mờ ám, tố cáo bọn thực dân Pháp đê hèn, lừa bịp, đồng thời bộc lộ một cách kín đáo nỗi tủi nhục của người dân bản xứ, mà chế độ thực dân, qua đó hiện lên một sự sỉ nhục đối với con người. Nhưng đây cũng là một truyện giàu tính nghệ thuật, mang chất lãng mạn cách mạng, ở đó, “trí tưởng tượng của con người cầm bút nhờ ngọn gió lãng mạn mà được chắp cánh bay bổng, nhưng không phải để lạc loài đến những thế giới xa lọ, huyễn hoặc mà để tiến thẳng, tiến nhanh đến những chân trời rất hiện thực" (Phạm Huy Thông). Cho nên nghệ thuật trần thuật linh hoạt độc đáo, ngòi bút châm biếm vừa sâu sắc,đầy tính chiến đấu, vừa tươi tắn, hóm hỉnh chính là những yếu tố hình thức phục vụ tích cực cho nội dung, cho mọi mục đích cách mạng của truyện.
Vi hành được viết bằng tiếng Pháp và chủ yếu viết cho công chúng Pháp. Vì thế nghệ thuật trần thuật ở đây cần phải phù hợp với thị hiếu, lộ tư duy của Châu Âu hiện đại. Cái độc đáo của tác phẩm là hình thức viết thư kể chuyện, là hiện tượng "truyện trong truyện". Có chuyện vua Khải Định vi hành lồng trong chuyện giữa đôi trai gái, lại lồng trong truyện giữa nhân vật xưng “tôi” vói cồ em họ. Đói trai gái người Pháp bàn luận, đánh giá về Khải Định và “tôi" lại cũng luôn luôn bày tỏ thái độ của mình vể -tên vua bù nhìn, về thực dân Pháp qua câu chuyện đó. ‘Tôi” là người kể chuyện nhưng dường như cũng luôn luôn mang tư duy của tác giả để nhìn nhận, nâng cao và mở rộng hơn những suy nghĩ của đôi trai gái về Khải Định. Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã tạo ra một giọng trần thuật vừa khách quan, đi ngay vào sự việc, cứ hồn nhiên, tính rụi như không, lại vừa chủ quan với đủ những nghi ngờ thắc mắc, nhớ nhung vui đùa, những nghĩ xa nghi gần. Tình huống nhầm lẫn ở đây như muốn nói lên rằng: Đấy là người Pháp họ nổi và nghĩ về Khải Định đấy chứ! Nhưng hình thức viết thư cũng lại muốn khẳng định ràng họ đã nói đúng và "rồi” còn thấy tên vua kia tồi tệ hơn, đáng khinh hơn thế nữa!
Sự linh hoạt của giọng trần thuật luôn đi với cái độc đáo của nó. Truyện luôn luôn có sự biến ảo, thay đổi vể cảnh: có cành hiện tại, có cảnh hoài niệm hồi tường, cảnh lịch sử, quá khứ, cảnh tưởng tượng, giả thiết...Giọng trần thuật, do đó cũng luôn linh hoạt chuyên đổi : có giọng đối thoại, giọng kể tả, bình luận, có giọng cợt mỉa, chua chát và có cả giọng bâng khuâng trữ tình gợi nhá, Có thể nói Nguyễn Ái Quốc đã tận dụng triệt để những khả năng nghệ thuật của hình thức viết thư: Sự chuyển cảnh chuyển giọng như biến hóa, sự liên hệ tạt ngang, vừa bày tỏ tình cảm, thái đó, vừa kể chuyện Đang nghe chuyện Khải Định, ta bỗng biết chuyện vua Nghiêu, Thuấn, vua Pi-e, đang nói chuyện thời sự, ta bỗng nghe đến "chuyện cổ tich"... Sự vật, sự việc cứ thay đổi một cách tự nhiên, trong ngòi bút linh động như kính vạn hoa của tác giả.
Bút pháp trần thuật của Nguyễn Ái Quốc cũng luôn chú ý đến sự đột ngột trong cách trình bày tình huống, mâu thuần và tạo khoảng trống cho trí tuệ người đọc tự liên tưởng, suy ngẫm, tìm ẩn ý hàm ngôn. Truyện mang một nội dung lớn lóng trong một hư cấu đơn giản. Nếu không hiểu mục đích người viết, ta sẽ thấy truyện chí có tác dụng giải trí, gây cười cho đám công chúng Pháp. Và nếu chỉ có sự thuật lại tình huống nhầm lẫn trên toa xe điện ngầm, nếu như đôi trái gái xuống tàu là hết chuyên thì truyện cũng chỉ dừng lại ở sự cợt mỉa cách ăn mặc, lối vi hành lén lút, mò tới mọi xó xỉnh của tên vua bù nhìn. Đôi trai gái xuất hiện đột ngột trong một thời gian ngắn rồi cũng đột ngột đi mít khiến người đọc cứ phải ngơ ngác, bất ngờ rồi mới chú vị nhận ra những ý những tình. Đoạn văn từ sau khi đôi trai gái xuống tàu đã đem đến cho giọng trẩn thuật một sắc điệu mới: Giọng kể chủ quan với vẻ ngoài là ngợi khen nhưng bên trong là mỉa mai, khinh thường. Từ chỗ một người bị nhầm lẫn đi đến chuyện "tất cả những ai có màu da vàng đều trở thành hoàng đế ", từ việc Khải Định vi hành lén lút đi đến chuyện bọn mật thám Pháp rình rập từng bươc- chân người dân thuộc địa — cái muôn ngàn lần cay đắng vì bị mất tự do của kiếp người vong quốc — cho nên đàng sau cái dứng dưng sắc lạnh cùa giọng trần thuật, ta như cảm nghe cả chiểu sâu nỗi lòng tác giả.
Như vậy nghệ thuật trần thuật của Vi hành mang nhiều vẻ độc đáo mới lạ, không chỉ so với văn chương Việt Nam mà còn so với cả văn chương Pháp. Hình thức viết thư không có gì là mời đối với văn học phương Tây nhưng nó lại đi kèm theo một tình huống nhầm lẫn và những nhân vật Á Đông mang chút gì lạ lẫm, thú vị. Lời trần thuật của truyện đi theo cảm xúc người viết thư đã tạo nên cái không khí rất Tây và rất riêng ở đây.
Nghệ thuật châm biếm vốn cũng đã có truyền thống trong văn học Việt Nam, từ những Hồ Xuân Hương. Nguyễn Khuyến, Tú Xương cho đến Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Nhưng tiếng cười đa phá, mỉa mai ở Nguyễn Ái Quốc tại có sắc điêu riêng ở chất “uy - mua" rất Pháp, ở niềm tự tin, lạc quan của người chiến sĩ cộng sản. Vi hành là biểu hiện của một ngòi bút châm biếm vừa sâu sắc, đầy tính chiến đấu, vừa tươi tắn và hóm hỉnh.
Có thể gọi tên tiếng cười ở đây là tiếng cười trí tuệ. Người ta chỉ có thể hiểu được tiếng cười ấy khi có một tầm hiếu biết, nhận thức nhất định. Ấy là lối chỉ trích sắc sảo, không bằng đao to búa lớn mà bằng lối cười ruồi, nói mát. Phải có một trí tuệ, mội bản lình. Lập trường cách mạng vững chắc thì mới có thể sử dụng linh hoạt, hiệu quả thứ vũ khí chiến đấu lợi hại đó. Nhân vật chính -đối tượng châm biếm chủ yếu là Khải Định nhưng điều đặc biệt là hắn không thế trực tiếp xuất hiện trong truyện mà chân tướng vẫn hiện lên rất rõ. Tác giả đã mượn cái nhìn, ý nghĩ của chính đôi trai gái người Pháp cùng ý nghĩ, sự nghi hoặc, giả thiết của mình để soi chiếu, tái hiện hình ảnh tên vua bù nhìn từ nhiều chiều phía. Trong con mắt người Pháp, Khải Định có một trang phục nực cười như mội tên hề: "cái chụp đèn" (mà thực ta là cái nón) chụp lên cái đầu quấn khăn", "đeo lên người cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm" và có giá trị rẻ tiền hơn cả những trò giai trí rẻ tiền nhất. Phụ họa thêm với những lời mỉa mai khinh rẻ ấy là thái độ đả phá trực tiếp của tác giả trong những lời nghi vấn giả thiết, so sánh, liên hệ. Khải Định, khi hiện lên trong sự đối lập, tương phàn với vua Thuấn, vua Pi-e càng trở nên đáng khinh, càng tám thường, hèn mạt. Có một đoạn văn liên tục xuất hiện những câu hỏi đật ra những giá thiết về mục đích vi hành "không cao thượng" của Khái Định. Các từ ngữ "phải chăng”, “hay là", “hay không luyến láy, tiếp nối như thể tác giả cứ đảo trộn; soi xét, lật đủ mặt này mặt kia để phơi bày trần trụi mọi cái xấu của đối tượng đả kích. Những câu văn thư thoái khỏi cái tính chất '‘tâm sự” của lời viết thư để nói thẳng, nói trúng ý tình người viết thư - người viết truyện.
Sự sắc sảo của ngòi bút châm biếm còn bộc lộ trong bố cục, kết cấu truyện. Đi từ thời gian hiện tại đến thời gian bao quát, từ một tình huống nhầm lẫn cụ thể đến nhiều tình huống nhầm lần khác, Nguyễn Ái Quốc đã vừa tạo sự bất ngờ thú vị cho người đọc, vừa khẳng định, minh chứng trước chò những điều cẩn nói để lật tẩy hoàn toàn bộ mặt Khải Định. Ớ đây người ta dễ tin chắc vào những chuyện hư cấu. Bơi vì dưới ngòi bút đầy tính chiến đấu của Nguyễn Ái Quốc, sự hư cấu hay không hư cấu, thật hay không thật đều có cái lí do tồn tại của nó, rất rành mạch rõ ràng.
Ngòi bút Nguyễn Ái Quốc vẫn giữ được vẻ tươi tắn, hóm hỉnh của một tâm hồn trẻ trung, một tinh thần người chiến sĩ cách mạng luôn lạc quan, tin tưởng. Vi hành có tiếng cười giàu sắc điệu, ở đó có chất thâm thúy của người từng trải thông thuộc kinh sử lẫn chất tinh nghịch vui đùa của tuổi trẻ. Cho nên thái độ đả kích của tác giả cũng vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa bộc lộ khách quan vừa bộc lộ chủ quan. Lối nói ngược, nói mát ở đây dường như có thấp thoáng cả sự hiếu thắng thường thấy ở tuổi thanh niên. Sự bình luận: "Đó là nqười phục vụ thầm kín, rụt rè, vô tư và hết sức tận tụy" hay sự so sánh cái nón như "cái chụp đèn chụp lên cái đầu quẩn khăn”, cái dư vị ân cần theo dõi tôi chẳng khác mẹ hiền rình con thư chập chững bước đi thứ nhất", các vị bám lấy đế giày tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng" rõ ràng có cái hóm hỉnh, đùa vùi rất thoải mái, thú vị. Còn giọng điệu trần thuật, sự biểu lộ tình cảm của đối trai gái của “tôi" với cô em họ cũng có cái tươi tắn trẻ trung rất hấp dẫn. Những yếu tố ấy đã tạo nên da thịt cho câu truyện, đã đẫn một ý tưởng, nội dung chính trị đi vào lòng người hồn nhiên, dễ dàng như một chuyện giải trí thú vị.
Xem thêm:
Soạn bài Vi hành - Nguyễn Ái Quốc siêu ngắn
Đọc thêm: Vi hành - Nguyễn Ái Quốc
Soạn văn siêu ngắn: Vi hành - Nguyễn Ái Quốc
Đi vào thế giới nghệ thuật Vi hành, ta bắt gặp sự phong phú, tầng lớp của bao yếu tố thi pháp; giọng điệu, hình ảnh, tiếng cười châm biếm và cả tâm trạng, cảm xúc tác giả. Tâm trạng ấy không chỉ xuôi chiều trong sự đùa vui, mỉa mai giễu cợt mà còn có cả lòng căm ghét kẻ thù lẫn nỗi đau, nỗi nhục mất nước. Lòng yêu nước nhiều khi còn được bộc lộ một cách chua chát trong giọng văn như là nghịch lí, ngược đời : “Ngày nay, cứ mỗi lần ra khỏi cửa, thật tôi không sao che dấu nổi niềm tự hào được là một người An Nam và sự kiều hãnh được có một vị hoàng đế". Ngòi bút đầy tính chiến đấu của Nguyễn Ái Quốc đã phát huy đắc lực tác dụng của nó ngay cả khi đụng chạm đến những nỗi niềm riêng tư sâu kín.
Vi hành là một vũ khí cách mạng thực sự mà ở đó, tính nghệ thuật của tác phẩm đã mài sắc, vót nhọn nó, và trang điểm trang sức cho nó nữa.
Chương 6. Lịch sử bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông
Chuyên đề 2. Tìm hiểu ngôn ngữ trong đời sống xã hội hiện đại
Chủ đề 5. Cơ thể là một thể thống nhất và ngành nghề liên quan đến sinh học cơ thể
Chương 1: Cân bằng hóa học
Hello!
Soạn văn chi tiết Lớp 11
SBT Ngữ văn 11 - Chân trời sáng tạo
Chuyên đề học tập Ngữ văn 11 - Chân trời sáng tạo
SBT Ngữ văn 11 - Cánh Diều
Tuyển tập những bài văn hay Ngữ văn 11 - Chân trời sáng tạo
SGK Ngữ văn 11 - Cánh Diều
Chuyên đề học tập Ngữ văn 11 - Kết nối tri thức với cuộc sống
SGK Ngữ văn 11 - Kết nối tri thức với cuộc sống
Tuyển tập những bài văn hay Ngữ văn 11 - Cánh Diều
Bài giảng ôn luyện kiến thức môn Ngữ Văn lớp 11
SBT Ngữ văn 11 - Kết nối tri thức với cuộc sống
SGK Ngữ văn 11 - Chân trời sáng tạo
Chuyên đề học tập Ngữ văn 11 - Cánh Diều
Tuyển tập những bài văn hay Ngữ văn 11 - Kết nối tri thức với cuộc sống
Soạn văn siêu ngắn Lớp 11
Tác giả - Tác phẩm Lớp 11