Truyện ngắn của Nam Cao viết về đề tài người trí thức nghèo trong xã hội cũ đã để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc. Trăng sáng, Đời thừa, Mua nhà, Sống mòn,... là những tác phẩm độc đáo mang tính chất tự truyện của ông.
Nhân vật “tôi” trong mua nhà, đã tâm sự qua thư gửi bạn: “Tôi làm việc ghê gớm lắm. Tôi giết dần tôi đi để kiếm tiền...”. Và sau trận bão, cái nhà tre “như một người già khuỵu gối”, “tôi cố làm việc hơn trước nữa, tôi sẽ giết tôi nhanh hơn trước nữa”,... Nhà văn Hộ trong Đời thừa cũng vậy, anh đã trải qua bi kịch đầy nước mắt, giằng xé lương tâm. Qua nhân vật Hộ, tác giả phản ánh chân thực tình cảnh nghèo khổ, tủi nhục, bế tắc của người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Tấn bi kịch tinh thần của Hộ cũng như của những nhà văn nghèo trước Cách mạng được Nam Cao thể hiện một cách sâu sắc, chân thực, cảm động, từ đó đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn.
Hộ là một nhà văn nghèo có lương tâm và có tài. Khi chưa có vợ con “với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiểm được vừa đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ”. Nhưng từ khi “đã ghép đời Từ vào cuộc đời của hắn”, với một bầy con thơ “nhiều đen, nhiều sài, quấy rức, khóc mếu suốt ngày đêm và quanh năm uống thuốc”, thì Hộ đã rơi vào tấn bi kịch ghê gớm, bị cái nợ áo cơm ghì sát đất! Hộ cứ luẩn quẩn mãi trong bao nỗi khổ tâm “thứ nhất con đói, thứ hai nợ đòi, thứ ba nhà dột” như dân gian đã nói.
Hộ vốn là một nhà văn rất có ý thức sâu sắc về sự sống. Anh muốn sống đẹp, muốn “nâng cao giá trị đời sống” của mình bằng một sự nghiệp văn chương có ích cho đời. Nhưng rồi năm tháng trôi qua, cuộc đời quá phũ phàng, “kết cục chẳng làm được cái gì”, mọi ước mơ tiêu tan, Hộ dần dần trở thành một kẻ ‘‘vô ích", sống một “đời thừa” cay đắng.
Hộ vốn là nhà văn có tài và tự tin, từng ôm ấp “một hoài bão lớn”, một mộng đẹp văn chương. Với Hộ “đói rét không có nghĩa lý gì”, hắn “khinh nhưng lo lắng tủn mủn về vật chất”. Hắn say mê lý tưởng, đầu hắn “chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở”. Với Hộ “nghệ thuật là tất cả”. Hộ khao khát vinh quang “băn khoăn nghĩ tới một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”. Phải nói rằng cái khao khát ấy của Hộ là chính đáng, là ước mong chân chính của người có tài, có lương tâm, muốn khẳng định mình trong xã hội. Hộ không muốn sống tầm thường nhạt nhẽo. Khao khát của anh không phải là sự thèm khát hư danh và hám lợi của bọn tiểu nhân, phàm tục!
Lý tưởng sống vì nghệ thuật, “nghệ thuật là tất cả” của Hộ rất trong sáng và đẹp. Đâu phải là mơ hồ viển vông! Đâu phải là quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”! Mà đó là sự say mê lớn của một nhà văn muốn đem tài năng thi thố với đời. Sự nghiệp văn chương của Hộ luôn hướng tới cái Chân, Thiện, Mỹ, như đem hoa thơm trái ngọt để lại cho đời, mỗi trang văn cuốn sách đều tấm đẫm tinh thần nhân đạo. Anh đã từng tâm sự với bạn văn bút về một tác phẩm văn chương đích thực mà anh đang nung nấu, vươn tới sáng tạo. Tác phẩm ấy “thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn". Tác phẩm ấy “phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn”. Đó là những lời tâm huyết, rất sâu sắc và tiến bộ. Quan điểm nghệ thuật ấy là quan điểm nghệ thuật hướng tới con người, vì hạnh phúc của con người.
Hộ là một nhà văn vừa mẽ văn vừa tự hào về cái nghề cầm bút của mình. Mỗi lần đọc được đoạn văn hay, một câu văn hay, hắn “ngẫm nghĩ và để cho cái khoái cảm ngân ra trong lòng”. Với Hộ, văn chương là một món ăn tinh thần vô giá. Mỗi lần đọc được một đoạn văn hay, cảm được cái hay của văn chương “thì dẫu ăn một món ngon đến đâu cũng không thích bằng. Sướng lắm!”.
Hộ đã từng tâm sự với Từ: “Nghĩ cho kỹ, đời tôi không đáng khổ mà hóa khổ, chính tôi làm cái thân tôi khổ, tôi mê văn quá nên mới khổ” (..) “nhưng thử có người giàu bạc vạn vào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi”. Đó là một lời tự thú cảm động của những con người “đã mang cái nghiệp vào thân”. Sự “mê văn quá” của Hộ là một trong những nguyên nhân phát sinh tấn bi kịch cua người trí thức nghèo trong xã hội cũ.
Hộ có tài, có tâm, có lý tưởng đẹp, có hoài bão lớn, nhưng đâu dễ thực hiện được! Hắn phải gánh trên đôi vai gầy của mình cái gánh nặng vợ con, bao thì giờ bị ngốn vào “những bận rộn tẹp nhẹp, vô nghĩa lý”. Nợ nần triền miên: "tiền nhà... tiền giặt... tiền thuốc... tiền nước mắm...”. Nhiều lúc Hộ phải “sầm mặt lại” trước “những lo lắng liên miên về vật chất”, hắn mới thấm hiểu “giá trị của đồng tiền”, hắn mới thấm hiểu nỗi đau khổ của một người chồng “khi thấy vợ mình đói rách”. Nếu trước kia hắn “viết thận trọng”, chăm chút từng trang văn thì giờ đây “hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng... phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc”. Hắn vô cùng xấu hổ mỗi lần đọc lại một cuốn sách, hay một đoạn văn ký tên mình, “hắn đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách và mắng mình như một thằng khốn nạn”.
Vốn có tài và giàu lương tâm nghề nghiệp, nhưng trước cuộc sống vật chất, cơm áo ngặt nghèo, vợ con thúc bách ngày đêm, Hộ không còn được trau dồi nghệ thuật nữa, hắn phải viết “toàn những cái vô vị nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi”.
Với Hộ, nhà văn không thể làm theo, bắt chước người, mà phải sáng tạo, “biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Nhìn lại những gì hắn đã viết ra, hắn “buồn lắm, buồn lắm" Hắn xót xa buồn tủi cảm thấy mình là “một người thừa”, tự dằn vặt mình lá “một kẻ bất lương”, là “đê tiện”. Khát vọng thì cao xa mà rút cuộc, Hộ “chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương”. Hắn vùng vẫy trong đau đớn, tủi nhục, “điên người lên vì phải xoay tiền”. Bao mộng đẹp tiêu tan, bao dự định cuối cùng chỉ là tờ giấy trắng! Hắn vô cùng “chán ngán”, mang tâm trạng buồn thảm như “một kẻ phải đi đày”. Có lúc hắn thở dài ngao ngán: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi!”. Lòng Hộ “rũ buồn”. Còn có gì buồn hơn “còn có gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?”. Đó là bi kịch của một nhà văn, một kẻ sĩ mang mộng đẹp, hoài bão lớn, cuối cùng rất tầm thường, toan tính tủn mủn, phải sống như “một kẻ vô ích, một người thừa”.
Nhưng bi kịch tinh thần của văn sĩ Hộ đây chỉ có thế! Anh ta là một người chồng tốt, một người cha giàu tình thương con, nên bi kịch thứ hai này không kém phần đau đớn. Đó là bi kịch của một trí thức coi tình thương là nguyên tắc sống cao nhất, hi sinh tất cả cho tình thương, nhưng lại cứ sống bê tha, tàn nhẫn, thô bạo, gây đau khổ cho vợ con, chà đạp lên nguyên tác tình thương đó của mình.
Từ là một cô gái lỡ làng. Hộ đã nhận Từ làm vợ, nhận làm bố cho đứa con thơ, lo việc ma chay cho mẹ Từ. Một tấm lòng, một tình thương gần như nghĩa hiệp. Hộ đã “cúi xuống nỗi đau khổ của Từ”. Nhưng rồi, gia cảnh ngày một thay đổi, “đứa con này chưa kịp lớn lên, đứa con khác đã vội ra”, có nhiều lúc “hắn còn điên lên vì con khóc”. Một đôi lần, hắn thoáng nghĩ bỏ mặc vợ con, để được rảnh rang viết, thoát khỏi tình trạng “đời thừa”. Nhưng vốn nhân hậu, anh không thể chấp nhận sự tàn nhẫn như thế! Anh không thể sống ác, sống tàn nhẫn, như ai đó đã nói? Với Hộ tình thương là trên hết, hắn sẵn sàng “hi sinh” hoài bão nghệ thuật để giữ lấy tình thương, dù đó là một sự “hi sinh" quá lớn đối với anh. Hắn tự bảo: “Ta đành phí đi một vài năm để kiếm tiền. Nhưng để vượt lên khỏi cảnh ngộ, hắn quyết “không thể bỏ lòng thương” bởi lẽ, như hắn quan niệm: “Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đã kẻ khác trên đôi vai mình”
Sự đời, mọi đau khổ về bi kịch tinh thần đâu dễ gì một sớm một chiều mà có thể xua tan được? Để quên đi nỗi đau về sự tủi nhục, Hộ đã tìm đến rượu. Hắn ta đã chìm sâu vào vòng bi kịch, sau mỗi lần say. Say rượu, tâm tính Hộ thay đổi quá lớn thật đáng sợ. Có lúc, “hắn đã ngủ một nửa ngay từ khi còn ở dọc đường”. Có lúc hắn “đã đổ xuống như một khúc gỗ xuống bất cứ cái giường nào, ngủ say như chết”. “Có lúc hẳn lảo đảo bước vào nhà, mắt gườm gườm, đôi môi mím chặt...”. Có lần say rượu hắn đã đánh Từ, đòi “vật một nhát cho chết cả” mấy mẹ con Từ. Nhưng rồi khi tỉnh rượu hắn “bẽn lẽn” xin lỗi Từ “hôn hít các con như một người cha tốt”, tuyên bố chừa rượu, sau đó lại say, lại làm những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước. Say rồi tỉnh tỉnh rồi say. Cái vòng luẩn quấn ấy, Hộ phải qua nhiều ngày tháng u uất, “âm thầm đau khổ". Hộ lâm vào bế tắc nặng nề, thậm chí có lần anh dốc sạch tiền nhuận bút vào quán rượu, say rượu, đánh đuổi vợ con ra khỏi nhà giữa đêm khuya. Hình ảnh Hộ, sau cơn say, tỉnh dậy “mắt nhớn nhác tìm Từ”, dịu dàng nắm lấy tay Từ, lòng hối hận “khóc nức nở” là hình ảnh cảm động nhất về tấn bi kịch của người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Tiếng hát ru con của Từ phải chăng là để làm vơi đi ít nhiều nỗi đau đớn tinh thần của người chồng thương yêu đang trải qua tấn bi kịch nặng nề, u ám: "... Ai làm cho Nam Bắc phân kỳ - Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân?”
Trước Cách mạng, thi sĩ Tản Đà đã có lần cảm khái: “Văn chương hạ giới rẻ như bèo...”. Sau này, nhà thơ Xuân Diệu lại viết: “Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt - Cơm áo không đùa với khách thơ”. Với truyện ngắn Đời thừa, Nam Cao đã phản ánh một cách cảm động, đau xót bi kịch tinh thần của một người trí thức nghèo trong xã hội thực dân phong kiến. Tác giả đã lên án cái xã hội ngột ngạt bóp chết mọi mơ ước, tước đi cuộc sống chân chính của con người, đồng thời đã đầu độc tâm hồn con người và mối quan hệ vốn đẹp đẽ giữa người và người. Tấn bi kịch tinh thần của Hộ đã ghi lại cuộc đấu tranh tư tưởng của người trí thức trung thực, trong cảnh ngộ bế tắc, cố vươn lên giữ vững lẽ sống nhân đạo.
Đời thừa hay Sống mòn là chủ đề bao trùm nhiều sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng. Hộ, Điền, Thứ... là hiện thân cho nỗi đau khổ, tủi nhục của người trí thức nghèo. Hãy tạo ra một môi trường sáng tác lành mạnh trong xã hội tốt đẹp để mọi nhà văn có thể đem tài năng sáng tạo, sống có ích cho đời. Phải thay đổi cái cuộc đời ngột ngạt để cứu lấy con người, cứu lấy sự sống. Đó chính là ý nghĩa tư tưởng tích cực của sáng tác có tầm vóc này mà chúng ta cảm nhận được! Đời thừa là tiếng kêu thương đầy lệ!
Chủ đề 5. Một số cuộc cải cách lớn trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1858)
CHƯƠNG 2: NITƠ - PHOTPHO
Chủ đề 1: Vai trò, tác dụng của môn cầu lông; kĩ thuật bạt cầu
Phần một. Một số vấn đề về kinh tế - xã hội thế giới
PHẦN BA. LỊCH SỬ VIỆT NAM (1858 - 1918)
SBT Ngữ văn 11 - Chân trời sáng tạo
Chuyên đề học tập Ngữ văn 11 - Chân trời sáng tạo
SBT Ngữ văn 11 - Cánh Diều
Tuyển tập những bài văn hay Ngữ văn 11 - Chân trời sáng tạo
SGK Ngữ văn 11 - Cánh Diều
Chuyên đề học tập Ngữ văn 11 - Kết nối tri thức với cuộc sống
SGK Ngữ văn 11 - Kết nối tri thức với cuộc sống
Tuyển tập những bài văn hay Ngữ văn 11 - Cánh Diều
Bài giảng ôn luyện kiến thức môn Ngữ Văn lớp 11
SBT Ngữ văn 11 - Kết nối tri thức với cuộc sống
SGK Ngữ văn 11 - Chân trời sáng tạo
Chuyên đề học tập Ngữ văn 11 - Cánh Diều
Tuyển tập những bài văn hay Ngữ văn 11 - Kết nối tri thức với cuộc sống
Soạn văn siêu ngắn Lớp 11
Tác giả - Tác phẩm Lớp 11
Văn mẫu Lớp 11