/

/

Lý Thái Tổ và mối quan hệ đặc biệt với Phật giáo

Admin FQA

24/04/2024, 13:33

81

 

Lý Thái Tổ, vị vua đầu tiên của triều Lý, không chỉ được ghi nhận bởi công lao thống nhất đất nước sau một thời kỳ loạn lạc mà còn bởi quyết định dời đô sáng suốt, mang tầm nhìn chiến lược xa trông. Việc dời đô từ Hoa Lư về Đại La (nay là Hà Nội) vào năm 1010 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam, góp phần tạo nên nền tảng cho sự phát triển thịnh vượng của triều đại nhà Lý và đặt nền móng cho thủ đô Thăng Long nghìn năm văn hiến.

Lý Thái Tổ là vị vua đầu tiên của triều đại nhà Lý, nổi tiếng không chỉ với công lao thống nhất đất nước sau một thời kỳ loạn lạc mà còn bởi mối quan hệ đặc biệt với Phật giáo.

Lý Thái Tổ tên húy là Lý Công Uẩn (974 – 1028), là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Hậu Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì 20 năm, từ năm 1009 đến khi qua đời năm 1028. Về cuộc đời Lý Công Uẩn, có rất nhiều sử sách chép lại nhưng đều mang những nét huyền bí.

Những dòng chữ của tiền nhân còn lưu lại trên bia “Lý gia linh thạch” rằng, người phụ nữ sinh ra Lý Công Uẩn tên thật là Phạm Thị Ngà. Bà là người làng Hoa Lâm, làm thủ hộ của nhà chùa, chuyên quét sân, làm vườn và lo nhang đèn…

Sự đầu thai đã nhuốm màu thần bí, rồi sự chào đời của Lý Công Uẩn cũng vậy: “… một đêm, trời trong sáng lạ thường, có mây ngũ sắc xuất hiện, vị sư trụ trì ở chùa Ứng Tâm đã được báo mộng là ngày mai phải đón vua. Nhưng sáng sớm hôm sau chỉ thấy người đàn bà Phạm Thị Ngà đang xin tạm ở chùa sinh được một người con trai khôi ngô, trong lòng bàn tay có bốn chữ “sơn-hà-xã-tắc” đỏ như son”. 

Cha là “thần nhân” được thế lực thần bí chọn nơi sinh là cửa nhà Phật. Mẹ là thôn nữ, làm giám hộ ở chùa, có duyên với thần nhân. Như vậy, có thể thấy rằng, Lý Công Uẩn là kết quả của tình yêu giữa một người phụ nữ bình dân với một “thần nhân”. Lên ba tuổi được mẹ gửi gắm cho nhà sư Lý Khánh Văn.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì, “Vua sinh ra mới ba tuổi, mẹ ẵm đến nhà Lý Khánh Văn, Khánh Văn bèn nhận làm con nuôi”. Còn theo sách Đại Việt sử ký tiền biên “năm 3 tuổi, mẹ bế đến nhà Lý Khánh Vân ở chùa Cổ Pháp, Khánh Văn nuôi làm con nuôi” và đặt tên là Lý Công Uẩn.

Công Uẩn khôi ngô, rắn rỏi và rất thông minh nên được “ông bố nuôi” hết lòng chăm sóc, dạy bảo. Mới sáu, bảy tuổi, Công Uẩn đã thông thuộc kinh sử nhưng tinh nghịch. Giai thoại kể lại rằng: Một hôm sư Khánh Văn sai Công Uẩn mang oản lên bệ thờ Hộ pháp, cậu bé đã khoét ruột oản ăn trước. Đêm đến, Hộ pháp báo mộng cho sư biết.

Đến hôm sau, Khánh Văn trách mắng Công Uẩn. Cậu bé ức lắm, rồi lại viết vào sau lưng tượng mấy chữ “Đày ba ngàn dặm”. Đêm hôm đó, sư lại mộng thấy Hộ pháp đến ngỏ lời từ biệt rằng “Hoàng đế đày tôi đi xa, xin có lời chào ông”. Sáng hôm sau, sư lên xem pho tượng Hộ pháp quả thấy mấy chữ “Đày ba ngàn dặm” ở sau lưng.

Như vậy, quãng thời gian Công Uẩn chịu sự giáo dưỡng của nhà sư Vạn Hạnh kéo dài khoảng 12 đến 13 năm. Hơn 10 năm tu tâm dưỡng tính, học tập dưới mái nhà Phật và được sự rèn cặp của Thiền sư Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn trở thành một người có học vấn và trí tuệ hơn người, có lòng yêu nước sâu sắc.

Lại nói về thiền sư Vạn Hạnh, người cha tinh thần, người thầy giáo và người vạch ra con đường đi tới ngai vàng cho Lý Công Uẩn. Theo sử liệu thì thiền sư Vạn Hạnh sinh vào khoảng năm (938-939), ở châu Cổ Pháp (tương đương với huyện Từ Sơn và Tiên Du ngày nay). Ông cùng với Đào Can Mộc - một võ tướng thời đó đã phù trợ, ủng hộ Lý Công Uẩn lên ngôi, sáng lập vương triều Lý.

Lại nói rõ hơn, dưới thời Tiền Lê, Phật giáo giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Nhiều vị cao tăng được mến mộ, trọng đãi. Lực lượng quân đội do Đào Cam Mộc lãnh đạo và Phật giáo mà Vạn Hạnh là một thiền sư tiêu biểu là hai lực lượng chính phù trợ cho nhà Lê. Tuy nhiên, thời Lê Ngọa Triều, nhà vua đã duy trì những chính sách tàn ác khiến lòng dân oán thán, mất đi sự ủng hộ của Phật giáo và quân đội.

Một lần Đào Cam Mộc nói với Lý Công Uẩn: “Gần đây Chúa thượng ngu tối bạo ngược, làm nhiều việc bất nghĩa, trời chán ghét nên không cho hết thọ, con nối thơ ấu, không kham nổi nhiều khó khăn. Mọi việc phiền nhiễu thần linh không ưa, dân chúng nháo nhác, mong tìm chân chúa”.  Lần sau lại nói: “Người trong nước ai cũng nói họ Lý khởi nghiệp lớn, lời sấm đã hiện ra rồi. Đó là cái họa không thể che giấu được nữa.

Chuyển họa thành phúc chỉ trong sớm chiều. Đây là lúc trời trao người theo...” và “Thân vệ là người khoan thứ, nhân từ, lòng người chịu theo. Hiện nay trăm họ mỏi mệt, kiệt quệ, dân không chịu nổi. Thân vệ nên lấy ân đức mà vỗ về thì người ta tất xô nhau kéo về như nước chảy chỗ thấp, có ai ngăn được”.

Được sự ủng hộ của quân đội và giới Phật giáo, Lý Công Uẩn đã lên nắm triều chính. Đây là sự thay đổi vương triều thuận ý trời, hợp lòng người nên đã diễn ra êm thấm, không có đổ máu. Lý Công Uẩn lên ngôi ngày 2/11 năm Kỷ Dậu, tức ngày 21/11/1009 tại kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình). Ông là người sáng lập vương triều nhà Lý, lấy hiệu là Lý Thái Tổ, đặt niên hiệu là Thuận Thiên, vẫn lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt. 

Lý Thái Tổ là một vị vua hiền từ, rất lo cho dân. Với cương vị Hoàng đế sáng lập vương triều, nhà vua trước hết lo xây dựng vương triều, củng cố chính quyền trung ương. Ông được biết đến là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lý, có công dời kinh đô từ  Hoa Lư về kinh  thành Thăng Long, đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi cho đất nước. Nhờ có sự anh minh trong việc bình ổn chính trị, ngoại giao và dẹp bỏ các cuộc nội chiến trong nước đã giúp nhà Lý trường tồn đến 216 năm.

Theo dòng lịch sử, từ một tôn giáo ngoại lai trở thành tôn giáo dân tộc, sang thời Lý, Phật giáo trở thành quốc giáo của nhà nước Đại Việt. Triều đại nhà Lý tồn tại hơn 200 năm (1009-1225) với chín đời vua. Trong lịch sử Việt Nam, triều Lý là một triều đại lớn và để lại nhiều dấu ấn sâu sắc trên các lĩnh vực khác nhau. Dấu ấn quan trọng nhất trên lĩnh vực chính trị chính là sự kiện lịch sử năm 1010, sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ đã cho dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Thăng Long từ đó trở thành thủ đô văn hiến ngàn đời sau của dân tộc. 

Đến năm 1054, triều Lý lại đặt quốc hiệu mới cho nước Đại Việt và buộc nhà Tống phải thừa nhận nước ta là một quốc gia riêng. Trên lĩnh vực quân sự, triều Lý để lại dấu ấn trên trang sử hào hùng chống ngoại xâm của dân tộc (đánh Chiêm Thành phá tan âm mưu của nhà Tống trong việc lợi dụng Chiêm Thành để xâm lược nước ta và sau đó tổ chức thắng lợi cuộc kháng chiến chống Tống). Ngoài ra, triều Lý cũng chăm lo phát triển kinh tế, thúc đẩy văn hóa nên đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ... Một dấu ấn quan trọng khác trên lĩnh vực tôn giáo thời Lý là sự hưng thịnh của đạo Phật.

Sự hưng thịnh của đạo Phật thời Lý biểu hiện rõ nhất ở tổ chức tăng đoàn. Không chỉ có số lượng phật tử đông đảo (hầu như trên cả nước từ vua, quan đến dân đều theo đạo Phật) mà tăng đoàn còn có nguồn ruộng đất và tài sản riêng rất lớn. Triều đình phong kiến nhà Lý tham gia chính quyền từ trung ương đến các địa phương.

Các vua Lý đã kế thừa tổ chức tăng quan thời Đinh – Tiền Lê. Đây là tổ chức có tính chất tôn giáo liên quan chặt chẽ với hệ thống nhà nước. Tăng quan triều Lý là những người giúp cho nhà nước quản lý các tín đồ phật tử về mặt hành chính, đồng thời trên thực tế cũng là người bảo vệ quyền lợi của Phật giáo. Một số tăng sĩ đắc đạo và có học vấn uyên bác thời này được các vua Lý hết sức trọng dụng. Có sư là thầy dạy của vua và được phong làm Quốc sư. 

Dưới thời Lý, một loạt nhà sư được ban hiệu Quốc sư như Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Thông Biện, Viên Thông, Không Lộ. Vai trò chủ yếu của các Quốc sư thời Lý là những cố vấn đắc lực giúp vua hiểu biết về giáo lý đạo Phật, ngoài ra khi cần, các Quốc sư còn cố vấn cho vua những vấn đề về chính trị, ngoại giao, quân sự, văn hóa...

Tượng Thiền sư Vạn Hạnh

Tượng Thiền sư Vạn Hạnh

Nhà Lý đề cao Phật giáo do xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Xét về quan hệ, thái tổ nhà Lý (Lý Công Uẩn) có mối quan hệ đặc biệt với các nhà sư đương thời, thuở nhỏ từng là con nuôi của sư Lý Khánh Vân và là đệ tử thụ giáo của sư Vạn Hạnh. Xét về niềm tin tôn giáo, các vua thời Lý rất sùng đạo. Bản thân một số vua được tôn là tổ của các phái thiền. Vua Lý Thái Tông là vị Tổ thuộc thế hệ thứ bảy phái Thiền Vô Ngôn Thông. Vua Lý Thánh Tông là Tổ thứ hai Thiền phái Thảo Đường. 

Xét về chính trị, việc nhà Lý thành lập có công hậu thuẫn to lớn của thế lực Phật giáo trong nước đứng đầu là sư Vạn Hạnh. Về sau, các nhà sư lại trở thành những trợ thủ đắc lực phò vua giúp nước. Xét về xã hội, triều đình phong kiến nhà Lý muốn tận dụng những ưu điểm của Phật giáo để dung hòa những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội. Sau khi triều Lý thành lập, các vua nhà Lý cai trị đất nước trên hệ tư tưởng của đạo Phật nên đã dần dần xoa dịu sự bất bình của nhân dân cả nước trước sự bạo tàn, sa đọa của các vua cuối thời Tiền Lê.

Do sự đề cao Phật giáo của nhà nước phong kiến và sự phát triển của hệ thống tăng đoàn, đạo Phật đã từng bước hội nhập vào đời sống của người dân Việt. Sự hội nhập ấy diễn ra không phải chỉ một giai đoạn, một thời điểm mà xuyên suốt chiều dài lịch sử của triều đại nhà Lý. Giáo lý đạo Phật được phổ biến rộng rãi trên cả nước. Trong giai đoạn này, Phật giáo không chỉ dành riêng cho giới sư sãi, phật tử mà còn ảnh hưởng chung toàn xã hội. Chùa chiền không chỉ đơn thuần là nơi thờ tự, lễ hội mà còn là nơi học tập, trau dồi đạo đức, văn hóa của người dân Đại Việt; nổi bật nhất là môn phái thiền học được áp dụng một cách rộng rãi trong các tầng lớp dân chúng. Đạo Phật đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của nhân dân đúng như Hòa thượng Thích Mãn Giác sau này đã viết:

“Mái chùa che chở hồn dân tộc

Nếp sống muôn đời của tổ tông”..

Trở thành Quốc giáo hơn 200 năm tồn tại của triều đại nhà Lý, Phật giáo giữ vai trò quan trọng ảnh hưởng đến sự hình thành và bước đầu phát triển của quốc gia Đại Việt ở tất cả các hoạt động từ chính trị xã hội, quân sự, ngoại giao đến văn hóa, giáo dục.

Đánh giá về thái độ của Lý Thái Tổ với Phật giáo, Ngô Sĩ Liên cho rằng: "Việc ham thích Phật, Lão là chỗ kém". Ở đây phải thấy rằng Ngô Sỹ Liên là sử triều Lê. Dưới nhãn quan của một sử thần ở thời kỳ Nho giáo là tư tưởng chính trị chính thống thì việc đánh giá như vậy là điều dễ hiểu.

Nhưng để hiểu đúng về thái độ, cách ứng xử của Lý Thái Tổ với Phật giáo cần nhìn vào nguồn gốc xuất thân của Lý Thái Tổ (như trên đây). Đồng thời phải thấy được bối cảnh, yêu cầu của xã hội bấy giờ.

Ngoài lý do dễ nhận thấy đó là Lý Công Uẩn đã chịu ơn sâu nặng của nhà chùa, đứa con tinh thần của giới Phật giáo đang vươn lên nắm giữ vai trò trụ cột của đất nước và xã hội, nhờ sự ủng hộ của các nhà sư để lên ngôi nên những hành động sùng Phật này có thể coi là sự "đền ơn" của ông.

Nhưng mặt khác có thể thấy rằng trong bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XI, ý thức hệ ấy chỉ có thể là Phật giáo. Và, cho dù là người nhờ thế lực Phật giáo mà nắm quyền, Lý Thái Tổ đã không "vô tư" phục vụ Phật giáo, mà căn bản là ông sử dụng tôn giáo này như một phương tiện để đáp ứng đòi hỏi bức thiết của tiến trình lịch sử: xây dựng và củng cố một nhà nước độc lập, một chế độ trung ương tập quyền vững mạnh.

Mặt khác để giữ vững chủ quyền một cách thực sự phải có nền văn hóa phù hợp với dân tộc Việt, khác với văn hóa phương Bắc. Lý Thái Tổ đã tìm thấy những nét tương đồng, phù hợp với nhau giữa tâm tư, tư tưởng người Việt và tư tưởng Phật giáo. Khuyến Phật thật sự là một chiến lược về văn hóa, tư tưởng để xây dựng một nền văn hóa dân tộc độc lập với văn hóa phương Bắc.

Như vậy thì việc ông hoằng dương Phật giáo không chỉ đơn giản là hành động của một ông vua sùng đạo nữa, mà đó là động thái của một nhà cai trị có tầm nhìn chiến lược: nhà nước trung ương tập quyền cần phải có một ý thức hệ thống nhất như là điều kiện cho sự thống nhất quốc gia, ý thức hệ ấy sẽ làm giảm ý nghĩa của các tín ngưỡng địa phương - là cái thường xuyên được/ bị các thế lực cát cứ lợi dụng.

Lý Thái Tổ là một vị vua anh minh, sáng suốt, có tầm nhìn chiến lược xa trông. Ông đã có công lao to lớn trong việc thống nhất đất nước, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đưa Đại Việt vào thời kỳ phát triển thịnh vượng.

 

 

 

Bình luận (0)
Bạn cần đăng nhập để bình luận
Bài viết liên quan
new
Mạc Đăng Dung và Vương triều nhà Mạc

Mạc Đăng Dung là một nhà chính trị, nhà quân sự tài ba, có công lao to lớn trong việc củng cố nền độc lập cho đất nước, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển thịnh vượng. Tuy nhiên, việc ông phế truất vua Lê Cung Hoàng, lập ra nhà Mạc đã dẫn đến cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều kéo dài suốt 200 năm. Có thể nói, nhà Mạc - một triều đại phong kiến tồn tại hơn 150 năm, trong đó có 65 năm (1527-1592) ở Thăng Long. Trong suốt thời gian tồn tại, nhà Mạc đã có nhiều cống hiến đối với lịch sử dân tộc. Tuy vậy, theo quan điểm phong kiến thì cũng như nhà Hồ, nhà Tây Sơn, vì đã lật đổ triều đại cũ, lập nên triều đại mới cho dòng họ mình, đều bị coi là "nhuận", là "nguỵ" (nhuận Hồ, nguỵ Mạc, nguỵ Tây Sơn). Ngày nay, cùng với phương châm khoa học: "Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật" đã giúp cho chúng ta có cách nhìn mới về các nhân vật lịch sử, trong đó có nhà Mạc và Mạc Đăng Dung.

Admin FQA

24/04/2024

new
4 điều thú vị về hoàng đề Ung Chính

Ung Chính (1678 - 1722), tên húy là Dận Chân, là vị hoàng đế thứ 5 của triều Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 1722 đến năm 1722, chỉ vỏn vẹn 13 năm, nhưng đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử. Tuy thời gian trị vì ngắn ngủi, những thành tựu của Ung Chính đã đặt nền móng cho sự phát triển rực rỡ của triều Thanh dưới thời Khang Hi và Càn Long. Nhờ vậy, ông được xem là vị vua xuất sắc nhất của nhà Thanh, và là một trong những nhà cai trị tài ba nhất trong lịch sử Trung Quốc.

Admin FQA

24/04/2024

new
Nắm trọn cuộc đời và sự nghiệp của Alexander Đại đế

Được xem như "truyền nhân Asin", Alexander Đại đế - nhà chinh phục tài ba nhất thế giới - đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người Hy Lạp cổ đại bởi cuộc đời huy hoàng và những thành tựu to lớn. Cùng FQA tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của vị hoàng đế vĩ đại trong lịch sử Hy Lạp cổ đại này nhé!

Admin FQA

24/04/2024

new
Lê Lợi - một tài năng quân sự

Lê Lợi (1385 – 1433) là vị vua sáng lập ra nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống lại quân Minh xâm lược và giành thắng lợi sau 10 năm chiến tranh (1418 – 1427). Lê Lợi là một vị anh hùng dân tộc lỗi lạc, một nhà quân sự tài ba, một nhà chính trị sáng suốt, một nhà ngoại giao tài ba. Ông đã có công lao to lớn trong việc giành lại độc lập cho dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Lê Lợi là tấm gương sáng cho thế hệ mai sau noi theo.

Admin FQA

24/04/2024

new
Trần Thủ Độ - Danh nhân bậc nhất trời Nam

Trần Thủ Độ (1194 - 1264) là một vị quan văn, nhà chính trị, nhà quân sự lỗi lạc của Việt Nam, được mệnh danh là "nhãn tướng" của nhà Trần. Trong lịch sử Việt Nam, Trần Thủ Độ là một đại công thần, là người sáng lập và trực tiếp lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước những năm đầu thời kỳ nhà Trần. Trong suốt 40 năm (1226-1264), cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn liền với nghiệp đế của họ Trần, với quá trình khôi phục và phát triển kinh tế xã hội Việt Nam từ đống tro tàn của triều Lý vào thế kỷ XIII.

Admin FQA

24/04/2024

new
Thành Cát Tư Hãn và Đế chế Mông Cổ

Thành Cát Tư Hãn (hay còn gọi là Thiết Mộc Chân) là vị Đại Hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ, được xem là một trong những nhà chinh phục và lãnh đạo quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới. Ông đã thống nhất các bộ lạc du mục ở Đông Bắc Á, lập nên đế quốc Mông Cổ rộng lớn trải dài từ Thái Bình Dương đến châu u.

Admin FQA

24/04/2024

FQA.vn Nền tảng kết nối cộng đồng hỗ trợ giải bài tập học sinh trong khối K12. Sản phẩm được phát triển bởi CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ GIA ĐÌNH (FTECH CO., LTD)
Điện thoại: 1900636019 Email: info@fqa.vn
Location Địa chỉ: Số 21 Ngõ Giếng, Phố Đông Các, Phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Tải ứng dụng FQA
Người chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Tuấn Quang Giấy phép thiết lập MXH số 07/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 05/01/2024
Copyright © 2023 fqa.vn All Rights Reserved
gift-box
survey
survey
Đặt câu hỏi