25/11/2023
25/11/2023
25/11/2023
Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) người được phong là danh nhân văn hóa thế giới. Ông là người có học vấn uyên thâm ,là nhà thơ lớn của dân tộc. Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đạt nhiều thành tích nhất và có cống hiến cao nhất đối với nền văn học nước ta thế kỷ 16, chỉ riêng về số lượng bài viết cũng không tác giả đương thời nào sánh kịp.Thơ của ông mang đậm chất triết lí giáo huấn, ngợi ca chí khí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời cũng phê phán những điều sống trong xã hội. Nổi bật trong số đó phải kể đến tập thơ bằng tập viết thơ bằng chữ Hán là Bạch Vân am thi tập; tập thơ viết bằng chữ Nôm là Bạch Vân quốc ngữ thi và “Nhàn” là bài thơ tiêu biểu trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập, được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật. Bài thơ ca ngợi niềm vui trong cảnh sống thanh nhàn. Qua đó ta có thể thấy được vẻ đẹp chân chính của ông, nét mộc mạc của làng quê .
“Một mai một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.”
Trước hết hai câu đề đã khắc họa được hoàn cảnh sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm, như thế nào là một cuộc sống nhàn rỗi:
“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào …”
Ở câu thơ đầu câu thơ đã khắc họa chân thực một hình ảnh lão nông dân sống thảnh thơi nơi quê nhà. Biện pháp điệp số từ “một” kết hợp với các từ chỉ công cụ lao động "mai, cuốc, cần câu" - đây đều là những công cụ nhà nông quen thuộc của nhà nông. Từ đó đã khơi gợi ra trước mắt người đọc một cuộc sống giản dị và gần gũi nhưng không phải ai muốn là có được. Tính từ “thơ thẩn” trong câu hai một lần nữa đã khắc họa dáng vẻ của một người đang ngồi ung dung chậm rãi và khoan thai. Đặt ý thơ vào cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo ông về ở ẩn. Cụm từ “vui thú nào” cũng một lần nữa nói lên đề tài của bài thơ là về cảnh nhàn rỗi không dành cho ai bon chen vòng danh lợi. Hai câu thơ đề đã không những đã giới thiệu được đề tài mà còn khắc họa tư thế ung dung, nhàn hạ, tâm trạng thoải mái, nhẹ nhàng, vui thú điền viên.…
"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
Hai câu thực của bài thơ ý tác giả muốn nhắm đến quan điểm sống của bản thân. Ở đây nhà thơ đã sử dụng các từ đối nhau như “ta - người”; “dại - khôn” ; “nơi vắng vẻ - chốn lao xao”. Nhờ việc sử dụng những cặp từ đối lập đó đã thể hiện được quan niệm sống Nhàn. Người thi sĩ chủ động tìm đến nơi vắng vẻ đến với chốn thôn quê sống cuộc sống thanh nhàn mặc cho bao người tìm chốn “phồn hoa đô hội”. Hai câu thơ đã đưa ra hai lối sống độc lập hoàn toàn trái ngược nhau. Nhân vật trữ tình cũng tự nhận bản thân mình là “dại” vì đã theo đuổi cuộc sống nhàn nhã, thoát khỏi vòng danh lợi để giữ cho tâm hồn được an yên. Lối sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm có phải là lối sống xa đời và trốn tránh trách nhiệm? Tất nhiên là không vì khi đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác, ta mới chợt nhận ra Nguyễn Bỉnh Khiêm lựa chọn lối sống như vậy để giữ được cốt cách thanh cao của mình. Bản thân Trạng trình luôn có hoài bảo muốn giúp vua làm cho trăm dân ấm no hạnh phúc nhưng triều đình lúc đó đang tranh giành quyền lực, nhân dân đói khổ tất cả các ước mơ hoài bão của ông không được xét tới. Vậy nên lựa chọn khó khăn lúc bấy giờ chỉ có thể là rời bỏ “chốn lao xao”.
“Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”
Mở đầu hai câu luận tác giả đã dùng biện pháp liệt kê để kể tên những đồ ăn quanh năm có sẵn trong tự nhiên, nào là măng trúc, nào là giá. Mùa nào thức ăn nấy, mùa thu thường có măng tre và măng trúc quanh nhà, mùa đông khi vạn vật khó đâm chồi thì có giá đỗ thay. Hình ảnh “xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” đề cập đến cuộc sống sinh hoạt dân dã nơi thôn quê. Từ đây, người đọc có thể cảm nhận được tác giả đã sống rất thanh thản, hòa hợp với thiên nhiên tận hưởng mọi vẻ đẹp vốn có của đất trời mà không bon chen, tranh giành. Đặt vào hoàn cảnh lúc bấy giờ thì lối sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phản ánh được vẻ đẹp của tâm hồn thanh cao đó là lối sống tích cực thể hiện rõ thái độ của Bạch Vân cư sĩ.
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”
Hai câu luận đã thể hiện được cái nhìn của một bậc hiền triết lớn, tác giả đã vận dụng ý tưởng sáng tạo thông qua việc sử dụng điển tích Thuần Vu. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm phú quý không phải là một giấc chiêm bao vì ông đã từng đỗ Trạng Nguyên, giữ nhiều chức vụ to lớn của triều đình nên cuộc sống phú quý vinh hoa ông đã từng đi qua nhưng người không xem nó là mục đích sống của ông. Mục đích cuối cùng của cuộc đời này là tìm đến với cuộc sống thanh thản để luôn giữ được cốt cách thanh cao của mình.
Bằng việc sử dụng ngôn ngữ gần gũi mộc mạc nhưng giàu chất triết lí. Sử dụng khéo léo thể thơ thất ngôn đường luật, điển tích và cách phép đối thường gặp ở thể thơ Nôm một cách linh hoạt . Thông qua những phân tích nội dung và nghệ thuật của bài thơ Nhàn đã giúp bạn đọc hiểu được quan niệm sống nhàn và quan niệm đặt nhẹ danh lợi, luôn giữ được tâm hồn thanh cao hòa hợp với thiên nhiên, đề cao lối sống của những nhà nho giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm. Một người giàu lòng yêu nước nhưng vì hoàn cảnh nên phải sống ẩn dật. Bài thơ Nhàn là một bông hoa tuyết trắng được viết bằng chữ Nôm tuyệt đẹp trong văn học trung đại Việt Nam. Những quan niệm sống đề cao vẻ đẹp tâm hồn, lối sống trong sạch của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn giữ nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời