15/03/2024
15/03/2024
15/03/2024
Nguyễn Duy, một trong những nhà thơ hiện đại, đã tạo nên một sự kết hợp độc đáo giữa truyền thống ca dao dân gian và thơ ca của mình. Bài thơ "Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa" cũng không ngoại lệ, với tiêu đề và hai câu kết được trích dẫn từ những câu ca dao truyền thống về hình ảnh người mẹ. Điều này tạo nên một dòng cảm xúc chân thành, sâu lắng và mang trong mình những giá trị truyền thống thiêng liêng, lan tỏa khắp nơi trong bài thơ này
Bần thần hương huệ thơm đêm
Khói nhang vẽ nẻo đường lên Niết bàn
Chân nhang lấm láp, tro tàn
Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào
Bài thơ được mở đầu trong một không khí đặc biệt, tôn kính và trang nghiêm. Theo lời của Nguyễn Duy, đó là buổi giỗ mẹ của ông. Sự mất mẹ sớm đã gợi trong ông những cảm xúc buồn bã và sâu sắc về hình ảnh mẹ, và ông tìm kiếm mẹ trong tâm tưởng vì không có cơ hội được ở bên mẹ suốt đời. Nỗi buồn và xót xa vô hạn khi ông nhớ về người phụ nữ đã ra đi, đưa ông trở về quá khứ, với hình ảnh mẹ xa xăm thuở ấy, thông qua những ký ức mờ ảo và cả hình dáng của bà ngoại
Mẹ ta không có yếm đào
Nón mê thay nón quai thao đội đầu
Rối ren tay bí, tay bầu
Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa
Thế hệ phụ nữ xưa trong các làng quê Việt Nam, trừ những phú bà giàu có, phụ nữ trong gia đình quyền quý, phần lớn đều trải qua những cuộc đời nghèo khó và gian truân. Đối với những người phụ nữ nông thôn, cuộc sống của họ vốn đầy gian khổ mà không biết đến khổ cùng. Họ không chỉ gánh vác trách nhiệm sinh con, nuôi dưỡng gia đình, mà còn phải làm mọi công việc để nuôi con, nuôi chồng. Họ chấp nhận sự hi sinh, chịu đựng và nhịn ăn nhịn mặc vì gia đình, suốt đời chẳng biết đến niềm vui và hưởng thụ. Từ khi biết ăn nói, bà chỉ biết về sự nghèo khó, làm việc cả ngày với những quả bí, quả bầu để mang ra chợ bán đổi lấy vài đồng bạc. Suốt năm tháng, bà mặc những chiếc váy đen như nhuộm bùn và nước, những chiếc áo nâu rách rưới, vai áo bạc màu đã cũ.
Cái cò... sung chát... đào chua
Câu ca mẹ hát gió đưa về trời
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
Quay về quá khứ mờ ảo, trong ký ức xa xăm, Nguyễn Duy khám phá hình ảnh người mẹ yêu dấu qua những kỷ niệm với người bà. Hình ảnh của mẹ trong câu hát ru chính là biểu tượng và tâm hồn của cuộc đời, một cuộc sống gian truân và đầy chua xót, không biết đến hương ngọt mà chỉ có mùi chát, mùi chua tràn ngập.
Lời ru của mẹ là biểu tượng cho sự hy sinh và gian khổ trong cuộc đời, tình yêu mẹ dành cho con như dòng nước chảy trong nguồn, không mềm mãi, sự thông cảm và thấu hiểu mà mẹ trao cho con không thể đếm xiết. Con không kịp đáp lại, mẹ đã rời bỏ thế gian, điều đó gây đau đớn và sự chua xót trong tâm hồn Nguyễn Duy.
Bao giờ cho tới mùa thu
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao
Ngân hà chảy ngược lên cao
quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm...
bờ ao đom đóm chập chờn
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi
Nỗi nhớ mẹ không chỉ trở thành những lời ru và hình bóng mẹ, mà còn là những kỷ niệm dài trong suốt quãng đời ấu thơ của tác giả. Những ngày hội quân quýt bên mâm ngũ quả trong tháng Tám tràn đầy ước mong, khi đứa con thơ ngắm nhìn trái bưởi, trái hồng trên mâm ngũ quả, tưởng tượng một cảnh ngày mai tươi sáng. Cảnh đom đóm lấp lánh trong đêm, mang đến một bầu không khí tươi mát, yên bình đặc biệt của làng quê, vẫn còn vương trong tâm trí tác giả, gợi lên những kỷ niệm thân thương, gần gũi. Nhưng giờ đây, những kỷ niệm ấy đã trở thành quá khứ xa xăm, vì mẹ và ngày đó đã trôi qua rồi
Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
bà ru mẹ... mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng
Dù cuộc sống khó khăn, gian truân, mẹ không có nhiều học thức, nhưng mẹ đã truyền cho con những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc. Bằng những câu chuyện cổ tích, những câu ca dao truyền thống hàng ngàn đời của ông cha, và đặc biệt là những lời ru ngọt ngào khi con còn bé, mẹ đã khắc sâu trong tâm hồn con những hình ảnh về cò con vạc, những khổ đau trong cuộc sống, cánh đồng cò bay thẳng cánh và tình mẹ thiêng liêng. Nhưng ngày nay, khi đất nước phát triển mạnh về kinh tế và văn hóa, con người dường như đã quên những lời ru ân tình, tình mẹ đẹp đẽ, những câu ca dao và truyện cổ tích.
Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm xưa
ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương...
Trong ký ức xa xăm, Nguyễn Duy quay trở lại với nỗi nhớ mẹ, nỗi nhớ quê hương tha thiết. Ông nhớ những đêm đông lạnh giá, những ngày mưa gió khi mái tranh không đủ che mưa. Nhưng mẹ luôn âu yếm, hy sinh để con có được chỗ ấm, trong khi mẹ chịu nằm chỗ ướt, chập chờn trong giấc ngủ mơ màng. Điều đặc biệt trong bài thơ là cách Nguyễn Duy mang đến một sự chân thực và cảm động với từng chi tiết. Những đêm đông lạnh giá và ngày mưa gió mái tranh không đủ che mưa trở thành biểu tượng cho sự hy sinh và tình yêu thương của mẹ.
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa là một tác phẩm thơ tuyệt vời, mang tính biểu tượng và tiêu biểu cho tâm hồn nghệ thuật và phong cách sáng tạo của Nguyễn Duy, một nhà thơ đã trưởng thành trong giai đoạn khó khăn của cuộc chiến chống Mỹ. Bài thơ của ông mang trong mình sự đẹp như ca dao, sự đậm đà như dân ca, và hòa quyện với lời hát ru truyền thống. Tác phẩm thơ này đặc trưng bởi sự tươi sáng và hào hùng của tiếng nói dân tộc, nắm bắt cảm xúc và tình cảm trong nhịp điệu của lời ru. Từng câu thơ của Nguyễn Duy như những hình ảnh sống động và tình cảm sâu sắc, vẽ nên một bức tranh văn hóa và truyền thống văn hoá của dân tộc.
15/03/2024
Nguyễn Duy quê ở Thanh Hóa; anh viết bài thơ “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” tại Thành phố Hồ Chí Minh vào mùa thu 1986. Bài thơ gồm có 28 câu lục bát, chia thành 6 khổ thơ; khổ thứ tư có 8 câu, năm khổ còn lại, mỗi khổ có 4 câu thơ.
Chữ đầu mỗi khổ thơ đều viết hoa; các chữ đầu mỗi câu thơ còn lại không viết hoa. Toàn bài thơ chỉ có 4 dấu chấm lửng và một dấu gạch ngang mà thôi, không hề có dấu chấm, dấu phẩy... nào cả. Phải chăng đó là sự cách tân về hình thức nghệ thuật thơ lục bát của Nguyễn Duy? Tác giả đã vận dụng sáng tạo ca dao, tục ngữ để tạo nên những vần thơ trữ tình giàu âm điệu và nhạc điệu thiết tha ngọt ngào.
Mở đầu bài thơ là một không gian nghệ thuật thiêng liêng cổ kính, nhiều man mác bâng khuâng. Đứa con đứng bên bàn thờ mẹ, trong hương huệ thơm ngát, thành kính thắp nén nhang thầm khấn cầu mong hương hồn mẹ được siêu thoát lên cõi niết bàn:
“Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn”.
Nhìn khói nhang tỏa, nhìn chân nhang “lấm láp tro tàn”, đứa con cảm thấy người mẹ hiền đang hiển hiện giữa cõi đời, đang tất tả ngược xuôi:
“chân nhang lấm láp tro tàn
xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào”,
Các từ láy “bần thần”, “lấm láp“,“xăm xăm” là những nét vẽ tài hoa làm cho vần thơ giàu hình tượng và gợi cảm.
Khổ thơ thứ hai gợi tả hình ảnh người mẹ hiền ngày xưa. Người mẹ nghèo khổ, vất vả. Thời con gái chẳng có yếm đào, chẳng có nón quai thao mà chỉ có nón mê; áo quần chỉ một màu nâu nhuộm bùn:
“Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu”.
Hai tiểu đối: “tay bí // tay bầu”,“váy nhuộm bùn // áo nhuộm nâu” - nói lên thật hay, thật cảm động sự tần tảo vất vả và đời sống nghèo khổ của mẹ:
“Rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa ”.
Suốt đời mẹ sống mộc mạc, giản dị như thế. Quanh năm bốn mùa mẹ vẫn sống và ăn mặc như thế!
Khổ thơ thứ ba, lời ru của mẹ hiền ngày xưa vẫn còn vang vọng trong hoài niệm. Ca dao đã nhập hồn vào thơ Nguyễn Duy:
“Cái cò...sung chát đào chua...
câu ca mẹ hát gió đưa về trời”.
Câu ca dao “Cái cò đậu cọc cầu ao - Ăn sung sung chát, ăn đào đào chua” đã được nhà thơ vận dụng tài tình sáng tạo gợi lên bao thương nhớ người mẹ hiền nay đã đi xa…
Hai câu thơ: “Ta đi trọn kiếp con người – cũng không đi hết những lời mẹ ru” hàm chứa chất triết lí sâu sắc. Lòng mẹ bao la. Tinh thương của mẹ mênh mông đào dạt. Suốt đời con cũng không thấu hiểu, hiểu hết lời ru của mẹ. “Gió mùa thu, mẹ ru con ngủ ...Năm canh chày thức đủ năm canh... ”. Mỗi giấc ngủ của con được nâng niu bằng lời ru của mẹ vô cùng sâu nặng với biết bao tình đời và tình người. Mọi đứa con từ bé thơ đến trưởng thành, không bao giờ có thể “đi hết mấy lời mẹ ru". Hai chữ “đi” trong vần thơ của Nguyễn Duy được chuyển nghĩa một cách thần tình.
Điệp ngữ “bao giờ cho tới” trong khổ thơ thứ tư đã làm sống lại tuổi thơ với bao kỉ niệm đẹp. Ước mong được sống lại đêm rằm trung thu để phá cỗ. Ước mong được sống lại những đêm tháng năm đẹp trời để “nằm đếm sao” giữa sân nhà:
“Bao giờ cho tới mùa thu
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao”.
Hai chữ “đánh đu “ đã nhân hóa trái hồng trái bưởi, món quà trung thu, tạo nên sự ngộ nghĩnh hồn nhiên. Cái giây phút thần tiên “mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao” là giây phút hạnh phúc nhất của tuổi thơ. Kỷ niệm ấy, Nguyễn Duy có bao giờ quên; mỗi chúng ta có bao giờ quên.
Các từ láy:“nghêu ngao ”,“chập chờn ", “leo lẻo”, “xa xôi” trong bốn câu thơ tiếp theo vừa nêu lên sự hồn nhiên của tuổi thơ, vừa nói lên mơ ước được sống lại trong khung cảnh thần tiên nơi quê nhà. Đứa con có bao giờ quên những kỉ niệm đẹp, đầy hạnh phúc ấy:
“Ngân Hà chảy ngược lên cao
quai mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm...
bờ ao đom đóm chập chờn
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi”.
Ký ức tuổi thơ đã trôi vào dĩ vãng, nhưng vẫn còn chập chờn trong tâm hồn yêu thương với “những vui buồn xa xôi”. Đứa con càng thương nhớ mẹ, càng biết ơn mẹ không thể nào kể xiết!
Tiếp theo là những suy ngẫm về lời ru của mẹ, về công ơn trời bể của mẹ. Mẹ ru con, ru “cái lẽ đời", ru cái đạo lí làm con, ru cái đạo lý làm người. Con lớn lên từng ngày từng tháng nhờ dòng sữa ngọt ngào của mẹ, bằng lời ru thiết tha êm đềm của mẹ. Điệp ngữ “nuôi” trong hai tiểu đối đã nói lên công ơn to lớn của mẹ hiền:
“Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác // hát nuôi phần hồn”
Các thế hệ sẽ nối tiếp sinh ra, rồi lớn lên theo lời ru tiếng hát của mẹ, của bà. Điệu ru của bà, của mẹ sẽ được những thế hệ mai sau nâng niu, giữ gìn. Điệu ru tiếng hát của bà, của mẹ trong mỗi gia đình Việt Nam là dân ca, là tâm hồn dân tộc sẽ sống mãi đến muôn đời mai sau. Câu hỏi tu từ làm cho vần thơ trở nên thiết tha, lay động hồn người:
"Bà ru mẹ...mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng”.
Nhớ mẹ, nhớ nơi chôn nhau cắt rốn, đứa con ly hương đêm ngày đăm đắm “Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Càng "nhìn về” càng bồi hồi nhớ mẹ, nhớ đức hy sinh cao cả, tình thương con bao la của người mẹ nay đã khuất núi. Câu tục ngữ "Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo nhường con" được tác giả vận dụng sáng tạo:
"Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa”.
Tác giả khép lại bài thơ bằng hai câu thơ mang âm điệu ca dao trữ tình thể hiện bao nỗi ân tình sâu nặng của đứa con đối với người mẹ hiền thương yêu:
"Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”.
Dù mẹ đã mất, nhưng những kỉ niệm ân tình sâu sắc ấy của mẹ, đứa con mãi mãi ghi sâu trong lòng. Lòng hiếu thảo là một trong những tình cảm đẹp nhất của con người Việt Nam chúng ta. Thơ Nguyễn Duy man mác như điệu ru tiếng hát của bà, của mẹ sau lũy tre xanh, bên bờ dâu ruộng lúa đang vọng về năm tháng. Những suy tư triết lí của tác giả làm cho tư tưởng tình cảm trong bài thơ trở nên sâu sắc, mang tính chất dân tộc và hiện đại.
"Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa..." là một bài thơ rất hay, tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong khói lửa chiến tranh thời chống Mỹ. Quả vậy, thơ Nguyễn Duy đẹp như ca dao, đậm đà như dân ca, man mác như lời hát ru.
Chúc bn hc tốt!
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
02/06/2025
Top thành viên trả lời