19/03/2024
19/03/2024
Đại thi hào, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi là tác giả lớn, cây đại thụ trong lịch sử văn học dân tộc ta. Cuộc đời đầy máu và nước mắt của ông khiến bất kỳ ai cũng đều xót xa và đau đớn khi chứng kiến. Thế nhưng vượt lên trên tất cả những bất hạnh ấy, Nguyễn Trãi đã cống hiến hết mình cho nhân dân và cho nghệ thuật. Một trong những đóng góp của Nguyễn Trãi cho nền văn học chính là những bài thơ Đường luật đã được Việt hoá để mang hồn cốt dân tộc như bài thơ Mạn thuật 4. Một bài thơ hay trong chùm bài thơ Mạn thuật của ông.
254 bài thơ Nôm trong tập thơ “Quốc âm thi tập” hướng đến công chúng bình dân với hình ảnh làng quê bình dị, với sinh hoạt đời thường. Những bài thơ Nôm trong tập thơ này cũng thể hiện một tâm hồn Nguyễn Trãi giàu tình yêu với quê hương đất nước, nặng lòng với thời cuộc. Mạn thuật bài 4 là một trong những bài thơ thuộc chùm thơ Nôm của Nguyễn Trãi, cũng là một trong những bài thơ nổi tiếng của ông. Bài thơ thể hiện nỗi niềm sâu kín của nhà thơ trước cuộc đời, thời cuộc với những hình ảnh thiên nhiên gần gũi, thân thuộc.
Hầu hết các nhà nghiên cứu và các tài liệu sách giáo khoa đều khẳng định bài thơ được sáng tác trong thời điểm Nguyễn Trãi về ở ẩn tại quê nhà Côn Sơn. Sau một thời gian cống hiến hết mình cho nhân dân, chứng kiến chốn quan trường đầy rẫy bất công, ngang trái, Nguyễn Trãi đã quyết định cáo quan về ở ẩn. Đây cũng là thời điểm nhà thơ có nhiều cơ hội để chiêm nghiệm trước cuộc đời, thời cuộc, lòng người.
Hai câu đầu tiên: “Đủng đỉnh ….chim bay” gợi dáng vẻ tư thế của nhà thơ trước thiên nhiên. Đó là tư thế của một kẻ an nhàn, thư thái trước thời cuộc. Từ láy đủng đỉnh được đảo lên đầu câu gợi dáng vẻ thong dong, tự tại của con người. Giữa một buổi chiều hôm trên quê nhà nhà thơ như lắng lại để ngắm khung cảnh nơi đây với bao vẻ đẹp bình dị, yên ả. Đây cũng là thời gian nhà thơ được trút bỏ hết tất cả những toan tính tầm thường chốn quan trường để sống đúng với những gì mà Người tâm niệm.
Bốn câu thơ tiếp theo: “non cao non thấp….nhẫn nay” là những suy nghĩ của Nguyễn Trãi về sự vận động của thiên nhiên và cuộc đời. Phép đối được sử dụng triệt để trong các cặp câu này. Đó là đối giữa non cao, non thấp với cây cứng, cây mềm; mây thuộc với gió hay; nước mấy trăm thu với nguyệt bao nhiêu kiếp; còn vậy và nhẫn nay. Phép đối có tác dụng nhấn mạnh sự vật hiện tượng thiên nhiên như thế nào thì chúng ta đều có thể biết được. Duy chỉ có một thứ mà không ai có thể biết được chính là lòng người:
Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết
Bui lòng người cực hiểm thay
Quả đúng là như vậy, sự vật thiên nhiên thì mọi thứ đều rõ ràng, không có gì dấu giếm như non cao, non thấp thì mây biết; cây cứng, cây mềm thì gió hay. Duy chỉ có lòng người vô cùng thâm sâu, khó lường, bởi lẽ “ sông sâu còn có kẻ dò/ lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”. Nhiều năm lăn lội chốn quan trường, trực tiếp phò giúp hai vị vua nhà Lê, Nguyễn Trãi đã quá quen với lòng người trong xã hội. Tâm hồn trong sạch, quyết không sống chung với những thứ đê hèn, bẩn thỉu của một bộ phận quan lại chốn quan trường nên ông đã phải cáo quan về quê. Thế nhưng thị phi vẫn không buông tha cho ông để đến nỗi phải chịu thảm án “tru di tam tộc” mãi về sau mới được vua Lê Thánh Tông minh oan.
Thế là về quê ở ẩn để tìm sự thanh sạch, an nhàn trong tâm, tưởng ngoài tâm an nhàn nhưng ẩn sâu trong tư tưởng lại không hề nhàn. Nguyễn Trãi vẫn vô cùng ghê sợ với lòng người trong xã hội thâm hiểm, khó lường. Chúng ta thấy rõ sự thất vọng, đau đớn của nhà thơ trước thời cuộc. Phải chăng cũng vì thế mà suốt nhiều năm chốn quan trường Nguyễn Trãi vẫn không thể nào “nhập cuộc” được “xã hội” đặc biệt ấy.
Mạn thuật bài 4 của Nguyễn Trãi được viết hoàn toàn bằng chữ Nôm trên nền của một thể thơ cổ. Dấu ấn của thơ Đường luật vẫn thể hiện rõ trong bố cục 8 câu: đề, thực, luận, kết, thủ pháp đối, đảo ngữ quen thuộc nhưng đã được việt hoá rõ rệt. Sự việt hoá được thể hiện rõ qua cách chọn lọc hình ảnh gần gũi, quen thuộc, bình dị. Các câu thơ lục ngôn xen vào bài thơ thất ngôn, vần nhịp, phối thanh biến hoá linh hoạt. Với bài thơ này Nguyễn Trãi đã mang đến một cuộc cách tân mạnh mẽ cho thơ Nôm của dân tộc.
Có thể nói Mạn thuật bài 4 là một trong những tác phẩm thơ Nôm tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Trãi. Bài thơ là sự vận dụng tài tình ngôn ngữ dân gian nên những câu thơ đầy gợi tả, để lại dấu ấn đậm sâu trong lòng người đọc. Thông qua bài thơ chúng ta hiểu rõ hơn về vẻ đẹp cốt cách con người Nguyễn Trãi: một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên; nặng lòng với thời cuộc.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
02/06/2025
Top thành viên trả lời