Để giải bài toán này, ta sử dụng nguyên lý cơ bản của xác suất.
Biến cố A là tích số chấm xuất hiện trên hai con xúc xắc là một số lẻ, biến cố B là tổng số chấm xuất hiện trên hai con xúc xắc là một số chẵn.
Ta có thể liệt kê tất cả các kết quả có thể của việc gieo hai con xúc xắc. Có tổng cộng 36 kết quả (6 mặt của con xúc xắc nhân với nhau).
Biến cố A: Tích số chấm xuất hiện trên hai con xúc xắc là một số lẻ.
Có 18 kết quả thỏa mãn điều kiện này: (1,1), (1,3), (1,5), (3,1), (3,3), (3,5), (5,1), (5,3), (5,5) và các hoán vị của chúng.
Biến cố B: Tổng số chấm xuất hiện trên hai con xúc xắc là một số chẵn.
Có 18 kết quả thỏa mãn điều kiện này: (1,1), (1,2), (1,4), (1,6), (2,1), (2,2), (2,4), (2,6), (3,2), (3,4),
(3,6),(4 , 1 ),(4 , 2 ),(4 , 3 ),(4 , 4 ),(4 , 5 ),(4 , 6 ),(5 , 2 ),(5 , 4 ),(5 , 6 ) và các hoán vị của chúng.
Số phần tử của biến cố A×B được tính bằng tích số phần tử của biến cố A và B. Do đó:
Số phần tử của biến cố A×B = Số phần tử của biến cố A * Số phần tử của biến cố B = 18 * 18 = \textbf{324}.
Tuy nhiên khi kiểm tra lại ta thấy rằng không có kết quả nào thỏa mãn đồng thời cả hai điều kiện cho biến cố A và B. Do đó:
Số phần tử của biến cố A×B = \textbf{0}.