câu 1: Những đặc điểm của thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật được thể hiện trong bài thơ trên là: - Số câu: 8 câu. - Số chữ trong mỗi câu: 7 chữ. - Bố cục: gồm 4 phần đề, thực, luận, kết. - Vần: vần bằng, gieo ở cuối các -2-4-6-8. - Nhịp: nhịp chẵn. - Đối: đối giữa với , với .
câu 2: Chủ thể trữ tình trong đoạn trích trên là Nguyễn Bỉnh Khiêm
câu 3: Biện pháp tu từ liệt kê
câu 4: Nhan đề “Bài ca ngất ngưởng” thể hiện thái độ sống khác đời, ngạo nghễ, coi thường danh lợi, coi thường công danh, phú quý, tự cho mình là kẻ “ngất ngưởng”, hơn đời, không giống ai.
câu 5: Ẩn dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt. Trong đoạn trích trên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sử dụng phép ẩn dụ để nói về lối sống thanh cao, giản dị của mình. Cụ thể, tác giả đã dùng các hình ảnh "ta dại", "người khôn" để chỉ bản thân mình và những người ham mê danh lợi, quyền lực. Hình ảnh "ta tìm nơi vắng vẻ" thể hiện cuộc sống bình yên, thanh thản của nhà thơ, còn hình ảnh "người đến chốn lao xao" lại ám chỉ cuộc sống bon chen, tranh giành của những kẻ tham lam, ích kỉ. Bằng cách sử dụng phép ẩn dụ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện quan niệm sống tích cực, đúng đắn của mình. Ông cho rằng, con người nên sống hòa hợp với thiên nhiên, tránh xa những cám dỗ của tiền bạc, quyền lực. Sống như vậy mới có thể giữ gìn được tâm hồn thanh cao, trong sáng.
câu 6: Hai câu thơ cuối bài thể hiện thái độ coi thường danh lợi, phú quý của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
câu 7: Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Thơ ông mang đậm chất triết lí giáo huấn, ngợi ca chí khí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời phê phán những điều xấu xa trong xã hội. Bài thơ “Nhàn” tiêu biểu cho phong cách sáng tác đó của ông. Trong hai câu đầu, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhắc lại quan niệm sống quen thuộc của nho gia xưa: “Thú lâm tuyền”. Đó là thú vui sống giữa rừng núi hoang dã, với suối, với hang, với chim muông, cỏ cây. Sống như vậy để di dưỡng tinh thần, để thoát tục. Hai chữ “thơ thẩn” diễn tả tâm thế ung dung, không vướng bận bất cứ điều gì của con người. Một cuộc sống tự do, tự tại, hòa hợp với thiên nhiên yêntĩnh và trong sạch. Và đặc biệt, đó còn là thái độ coi thường công danh, phú quý: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, người khôn, người đến chốn lao xao”. Nơi vắng vẻ là nơi đời sống yên tĩnh, bình dị, dân cư chưa tấp nập, trù phú. Chốn lao xao là nơi có nhiều việc phải làm, phải giải quyết, ý chỉ chốn quan trường, quyền quý, bon chen. Ta dại tìm nơi tĩnh mịch chính là ta dại nên tìm nơi thanh bần, giản dị; người khôn đến chốn lao xao tức là người khôn nhưng lại chọn chốn vinh hoa, phú quý. Thật ra đây chỉ là cách nói ngược để nhấn mạnh vào sự lựa chọn lối sống của mình. Nhà thơ tự thấy mình “dại” khi rời xa chốn quan trường đầy rẫy những toan tính, tham vọng, mưu mô để tìm về với chốn thôn quê thanh tịnh, yên ả. Ông cũng tự nhận mình “khôn” bởi lẽ ông đã nhận ra bộ mặt thật của xã hội phong kiến suy tàn, thối nát, nhận ra cái giả tạo, lố bịch của đám người chạy theo công danh, lợi lộc. Câu thơ thể hiện niềm tự hào, kiêu hãnh của nhà thơ vì đã giữ được phẩm chất cao quý, sống đúng với đạo lí truyền thống của nhân dân.
câu 8: Em hoàn toàn đồng ý với quan niệm sống "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ trên. Bởi lẽ cuộc đời con người là hữu hạn nhưng những điều tốt đẹp thì lại vô cùng. Sống theo lối sống "Nhàn" giúp cho tâm hồn mỗi chúng ta trở nên thanh thản hơn, bình yên hơn. Chúng ta biết trân trọng những gì mình đang có, tận hưởng trọn vẹn từng khoảnh khắc của cuộc sống.