phần:
: I. Tiếng Việt
Câu hỏi 1: Người kể chuyện trong đoạn trích là ai?
- Người kể chuyện trong đoạn trích là người kể chuyện xưng "tôi".
Câu hỏi 2: Chỉ ra biện pháp tu từ trong câu văn sau: Thi thoảng bà ghé qua nhà săm soi cách ăn ở thu vén của mẹ, thở dài thườn thượt khi thấy cái bụng con dâu vẫn phẳng lì như con cá đét.
- Biện pháp tu từ so sánh: Cái bụng con dâu vẫn phẳng lì như con cá đét.
Câu hỏi 3: Chỉ ra những điểm nhìn trong câu chuyện và nêu tác dụng của việc thay đổi điểm nhìn ấy trong truyện.
- Điểm nhìn: Bà nội – Mẹ; Mẹ – Tôi.
- Tác dụng: Làm nổi bật sự quan sát tinh tế của tác giả đối với cuộc sống nơi quê hương. Qua đó, khắc hoạ rõ nét hình ảnh người phụ nữ tảo tần, chịu thương chịu khó. Đồng thời, bộc lộ sự trân trọng, ngợi ca của tác giả dành cho những đức tính cao quý ấy.
Câu hỏi 4: Nhận xét về một phẩm chất của nhân vật người mẹ được thể hiện trong đoạn trích.
- Phẩm chất của nhân vật người mẹ được thể hiện trong đoạn trích là: Chịu thương, chịu khó, giàu đức hi sinh.
II. LÀM VĂN
Câu hỏi 5: Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích, đánh giá tình huống truyện trong đoạn trích sau: Ông già Tư nhỏ thức dậy từ lúc nửa đêm. Ông rên lên một tiếng ứ hự, thấy thất vọng khi nghe lòng mình vẫn còn đau. Có một niềm khát khao đến cháy bỏng, ông vẫn thường ước ao một lần nào đó đánh giấc thật sâu, khi trở dậy nỗi đau ấy biến mất, không còn dấu vết, như thế nó chưa từng có trên đời. ... Tình cha con đã như nước chảy xuống kẽ tay từ một ngàn năm trăm mười hai ngày trước. Cái ngày con Nga rầu rĩ xin ra chợ cũ thăm má nó. Ông gật đầu, thì người đàn bà đó hơn một năm rồi chẳng về, tưởng đã quên mất con đường quay lại xẻo Mê. Ai dè chiều hôm sau má con Nga tông tả xông vào nhà, níu áo ông mà rằng: “Sao anh hại đời con gái tôi đến nỗi nó phải mang bầu…” Ông Tư kêu lên một tiếng trời ơi. Tôi là người như vậy sao, Cúc Ơi, tôi mà là người như vậy à. Cúc biết tôi bấy lâu nay, sao lại gieo cho tôi cái tội mà chỉ nghĩ đến thôi đã xấu xa… Nhưng chẳng kịp mặc cái áo khô vào để phân trần, công an xã đã ập tới, bắt ông đi.
* Yêu cầu hình thức:
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng về dạng bài Nghị luận văn học để tạo lập văn bản.
- Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
* Yêu cầu nội dung:
Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, linh hoạt trong cách diễn đạt, đảm bảo các yêu cầu sau:
1. Giới thiệu chung:
- Giới thiệu khái quát về tác giả Tạ Thanh Hải và tác phẩm Đường đến chân trời.
- Nêu vấn đề nghị luận: Phân tích, đánh giá tình huống truyện trong đoạn trích.
2. Phân tích, đánh giá tình huống truyện trong đoạn trích:
- Khái niệm tình huống truyện: Là hoàn cảnh riêng, đặc biệt được tạo nên bởi một sự kiện nhằm thử thách con người, bộc lộ tính cách, số phận, tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
- Tình huống truyện trong đoạn trích: Ông Tư bị nghi ngờ là kẻ cưỡng hiếp cô Nga dẫn đến việc cô mang thai.
+ Tình huống truyện đẩy nhân vật vào trạng thái bi kịch, bế tắc, tuyệt vọng.
+ Tình huống truyện giúp bộc lộ những phẩm chất cao đẹp của nhân vật: Ông Tư là người hiền lành, lương thiện, giàu tình yêu thương.
- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện:
+ Tạo ra tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.
+ Góp phần thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
+ Bộc lộ những phẩm chất cao đẹp của nhân vật.
3. Đánh giá chung:
- Ý nghĩa của tình huống truyện:
+ Khơi gợi sự tò mò, hứng thú của người đọc.
+ Bộc lộ những phẩm chất cao đẹp của nhân vật.
+ Góp phần thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
III. Kết thúc vấn đề:
Khái quát lại vấn đề nghị luận; rút ra bài học và liên hệ bản thân.