câu1: - Bài thơ "Chạy giặc" được viết bởi Nguyễn Đình Chiểu nhằm thể hiện tâm trạng đau đớn và căm phẫn trước cảnh đất nước bị xâm lược bởi thực dân Pháp. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ sắc bén và hình ảnh sinh động để mô tả tình hình bi thương của quê hương trong thời kỳ chiến tranh.
câu2: : Bài thơ "Chạy giặc" được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, với bố cục gồm bốn phần: đề, thực, luận, kết. Mỗi câu thơ có bảy chữ, mỗi cặp câu thơ (đề - thực và luận - kết) tạo thành một cặp câu thơ đối nhau về mặt ngữ pháp và âm điệu.
- Hai câu đề miêu tả cảnh tượng hỗn loạn, tang thương khi quân Pháp tấn công vào Sài Gòn. Tiếng súng nổ vang trời khiến người dân hoảng sợ, chạy tán loạn. Hình ảnh "lũ trẻ lơ xơ chạy", "bầy chim dáo dác bay" gợi lên sự hoang mang, lo lắng của những đứa trẻ và đàn chim trước tai họa bất ngờ ập đến.
- Hai câu thực tiếp tục khắc họa khung cảnh bi thương, tàn khốc của chiến tranh. Bến Nghé, Đồng Nai vốn là những vùng đất trù phú, nhưng nay đã bị quân Pháp cướp phá, đốt cháy, khiến cho mọi thứ trở nên tan tác, tiêu điều.
- Hai câu luận đặt ra câu hỏi đầy đau đớn, trách móc: "Hỏi trang dẹp loạn rầu đâu vắng?". Câu hỏi này không chỉ là lời than thở của Nguyễn Đình Chiểu mà còn là tiếng nói chung của nhân dân Nam Bộ lúc bấy giờ. Họ đang mong chờ những vị anh hùng đứng lên lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp, bảo vệ quê hương.
- Hai câu kết khẳng định lòng yêu nước, tinh thần kiên cường bất khuất của nhân dân Việt Nam. Dù phải đối mặt với kẻ thù mạnh hơn gấp bội, nhưng họ vẫn quyết tâm giữ vững ý chí đấu tranh, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc.
Bài thơ "Chạy giặc" là một bức tranh sinh động về hiện thực đau thương của đất nước trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp. Qua đó, ta thấy được tấm lòng yêu nước thiết tha, tinh thần dũng cảm, kiên cường của nhân dân Việt Nam.
: Đặc điểm gieo vần của bài thơ "Chạy giặc" là gieo vần chân, vần bằng. Các chữ cuối cùng của các câu thơ 1, 2, 4, 6, 8 đều gieo vần bằng: "tay - bay - mày - mây - vầy". Cách gieo vần này giúp cho bài thơ thêm nhịp nhàng, du dương, dễ nhớ, dễ thuộc.
câu3: : Trật tự trong cặp câu thực có sự thay đổi so với trật tự thông thường. Thay vì trình bày nguyên nhân trước rồi mới đến kết quả, Nguyễn Đình Chiểu lại đặt hình ảnh "lũ trẻ" và "bầy chim" lên đầu tiên, tạo nên hiệu ứng bất ngờ và tăng cường tính biểu cảm cho bài thơ. Việc đảo trật tự này giúp nhấn mạnh tình cảnh hỗn loạn, hoang mang của người dân khi chạy giặc, khiến họ phải bỏ lại những thứ thân thuộc nhất như con cái và tổ ấm. Đồng thời, nó cũng thể hiện sự xót xa, thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của người dân trong chiến tranh.
câu4: Bài thơ "Chạy giặc" là bức tranh hiện thực về tội ác của quân Pháp khi xâm lược nước ta. Đồng thời thể hiện tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Đình Chiểu. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật với bố cục đề - thực - luận - kết chặt chẽ. Hai câu đầu tả cảnh đất nước bị giặc Pháp xâm lược tàn phá. Hình ảnh nhân hóa "lơ xơ chạy", "dáo dác bay" gợi hình ảnh lũ trẻ con lạc đàn, bầy chim vỡ tổ vì hoảng sợ trước tiếng súng nổ vang. Hai câu tiếp theo nói lên nỗi đau thương của nhân dân. Bến Nghé, Đồng Nai vốn là những danh thắng trên đất nước ta, nay trở thành chứng tích bi thảm của chiến tranh, của tội ác quân cướp nước. Các từ ngữ "tan bọt nước", "nhuốm màu mây" diễn tả sự hủy hoại ghê gớm của kẻ thù đối với môi trường sống của người dân. Hai câu thực đối nhau, ngôn ngữ rất giản dị nhưng có sức khái quát cao đã ghi lại tội ác dã man của bọn cướp nước. Chúng không chỉ bắn đại bác vào thành Gia Định mà còn bắn vào nơi dân cư đang sinh sống. Thành bị hạ, nhà cửa bị phá tan hoang, biết bao người chết và bị thương. và 6 miêu tả cảnh chạy trốn của nhân dân khỏi vùng giặc Pháp chiếm đóng. Cảnh tượng thật hỗn loạn, kinh hoàng. Những gia đình phải dắt díu nhau chạy trốn, ai cũng lo lắng, hốt hoảng. Họ không hiểu rồi cuộc sống của họ sẽ ra sao hay là sẽ chết dưới súng đạn quân thù. Nhà thơ xót xa trước cảnh tượng đó và càng căm ghét kẻ thù hơn. Hai câu cuối cùng nêu lên một lời trách móc, ngậm ngùi: nhà vua - người đứng đầu triều đình - ở đâu mà để dân chúng phải khổ sở như vậy! Tác giả muốn nhắc đến vua Tự Đức nhưng không dám trực tiếp chỉ trích ông ta nên đã mượn lời trách của nhân dân.