bài 42: - Từ láy: Dửng dưng, biếng đôi, dầu mặc, chê khen, mặc dữ, lành lánh, láng giềng, khách khứa, biếng thăm, nghìn dặm.
- Từ ghép: Thế sự, tranh, chê bai, khen ngợi, tốt lành, tìm kiếm, non Tạ Phó, cởi bỏ, ấn tín, Ngu Khanh, mây bạc, núi xanh, bạn bè, trăng sáng, canh khuya.
câu 1: Bảo kính cảnh giới là một trong những thi phẩm nổi tiếng của Nguyễn Trãi. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú đường luật, với bố cục bốn phần: đề - thực - luận - kết. Hai câu đề đã nêu lên bối cảnh và tâm trạng của nhân vật trữ tình:
"Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?"
Câu thơ mở đầu bằng hình ảnh "kẻ chốn Chương Đài", gợi lên sự xa cách về không gian và thời gian. Nhân vật trữ tình đang ở nơi đất khách quê người, cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Câu thơ tiếp theo sử dụng điển tích "người lữ thứ" để nhấn mạnh thêm nỗi cô đơn, lẻ loi của nhân vật trữ tình. Trong hoàn cảnh ấy, nhân vật trữ tình muốn tìm người để chia sẻ nỗi lòng nhưng lại không biết "lấy ai". Hai câu thực đã miêu tả khung cảnh thiên nhiên và tâm trạng của nhân vật trữ tình:
"Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn."
Hai câu thơ vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp nhưng cũng ẩn chứa nỗi buồn man mác. Hình ảnh "ngàn mai gió cuốn", "dặm liễu sương sa" gợi lên vẻ đẹp thanh tao, lãng mạn của mùa xuân. Tuy nhiên, hình ảnh "chim bay mỏi", "khách bước dồn" lại gợi lên sự mệt mỏi, chán chường của con người. Nỗi buồn của nhân vật trữ tình như hòa quyện vào cảnh vật, tạo nên một bức tranh thiên nhiên đầy ám ảnh. Hai câu luận đã phân tích nguyên nhân của nỗi buồn:
"Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?
Khách đà lên ngựa người còn ghé theo,
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?"
Nỗi buồn của nhân vật trữ tình xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Có thể là do khoảng cách địa lý, do sự khác biệt về văn hóa, hoặc do những biến cố trong cuộc đời. Dù là nguyên nhân nào đi chăng nữa, thì nỗi buồn ấy vẫn luôn hiện hữu trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Hai câu kết đã đưa ra lời nhắn nhủ của nhân vật trữ tình:
"Ai ơi giữ lấy đạo nhà,
Chẳng hơn nghìn vàng vẹn cả đôi bên."
Nhân vật trữ tình mong muốn mọi người hãy giữ gìn truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ. Đó là đạo lý làm người, là nền tảng vững chắc cho mỗi cá nhân phát triển. Lời nhắn nhủ ấy thể hiện tấm lòng nhân ái, vị tha của nhân vật trữ tình.
Bài thơ Bảo kính cảnh giới là một bài thơ hay, giàu ý nghĩa. Bài thơ đã thể hiện được tâm trạng cô đơn, lạc lõng của nhân vật trữ tình trước khung cảnh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp. Đồng thời, bài thơ cũng gửi gắm thông điệp về việc giữ gìn truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ.
câu 2: Trong hai câu thơ "Láng giềng một áng mây bạc, Khách khứa hai ngàn núi xanh", tác giả sử dụng phép đối để tạo nên sự tương phản về không gian và thời gian, đồng thời thể hiện tâm trạng cô đơn, lạc lõng của người lữ thứ.
* Đối xứng về mặt cấu trúc: Hai câu thơ được sắp xếp theo cấu trúc song song: "Láng giềng" - "Khách khứa", "một áng mây bạc" - "hai ngàn núi xanh". Cấu trúc này tạo nên sự cân bằng, hài hòa cho câu thơ.
* Đối lập về nội dung: "Láng giềng" là những người gần gũi, thân thiết, còn "khách khứa" lại là những người xa lạ, thoáng qua. "Mây bạc" tượng trưng cho sự vô thường, phù du, còn "núi xanh" biểu thị sự vững chắc, trường tồn. Sự đối lập giữa các yếu tố này làm nổi bật nỗi cô đơn, trống trải của người lữ thứ.
* Tác dụng nghệ thuật: Phép đối giúp tăng tính nhạc điệu, nhịp nhàng cho câu thơ, đồng thời tạo nên hiệu quả nghệ thuật độc đáo. Nó góp phần thể hiện chủ đề chính của bài thơ: nỗi buồn, sự cô đơn của con người trước dòng chảy thời gian và cuộc sống.
Kết luận: Phép đối trong hai câu thơ trên đã góp phần tạo nên vẻ đẹp nghệ thuật độc đáo cho bài thơ, đồng thời thể hiện sâu sắc tâm trạng của nhân vật trữ tình.
câu 3: Nguyễn Trãi là một nhà chính trị tài ba, lỗi lạc, ông còn là một nhà văn, nhà thơ với nhiều tác phẩm hay. Ông đã để lại cho đời sau một khối lượng lớn các sáng tác có giá trị văn học ở nhiều thể loại khác nhau trong đó có Bảo kính cảnh giới 43. Bài thơ được rút ra từ tập "Quốc âm thi tập" - Tập thơ Nôm sớm nhất hiện còn lưu giữ được. Tác phẩm là bức tranh thiên nhiên vào buổi chiều tà và qua đó bộc lộ những nỗi niềm sâu kín bên trong tâm sự của tác giả.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống:
"Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương."
Tác giả đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên bằng cách sử dụng những câu thơ giàu hình ảnh. Bức tranh ấy mở ra với hình ảnh cây hòe lớn lên nhanh chóng, tỏa bóng rộng khắp. Tiếp đến là hình ảnh cây thạch lựu đang trổ hoa rực rỡ sắc đỏ. Cuối cùng là hình ảnh ao sen hồng với hương thơm ngào ngạt. Tất cả những chi tiết ấy đã tạo nên một bức tranh sinh động, nhiều màu sắc. Đồng thời ta còn thấy được vẻ đẹp tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của Nguyễn Trãi trước thiên nhiên.
Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn khéo léo lồng ghép vào bức tranh thiên nhiên ấy hình ảnh cuộc sống bình dị, yên ả nơi quê hương:
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương."
Hình ảnh phiên chợ cá giúp chúng ta cảm nhận được nhịp sống sôi động, náo nhiệt của làng chài. Tiếng ve kêu không chỉ gợi lên bước chuyển nhịp của thời gian mà còn nhấn mạnh sự tĩnh lặng, vắng vẻ của không gian. Hai câu thơ cuối kết hợp giữa cảnh thực và cảnh mơ, giữa thị giác và thính giác. Tác giả lắng nghe tiếng ve kêu rồi liên tưởng tới tiếng đàn. Qua đây chúng ta thấy được Nguyễn Trãi là người rất yêu thiên nhiên, luôn muốn hòa mình vào với thiên nhiên.
Hai câu thơ cuối cùng đã bộc lộ rõ nét tâm trạng của tác giả:
"Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương."
Câu thơ đầu tiên thể hiện ước mong của Nguyễn Trãi. Ông muốn có cây đàn của vua Thuấn để gảy một khúc Nam Phong ca ngợi cuộc sống hôm nay. Đó chính là cuộc sống ấm no, hạnh phúc, bình yên của nhân dân. Câu thơ thứ hai thể hiện tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Trãi. Ông luôn nghĩ tới cuộc sống của nhân dân, mong ước họ có một cuộc sống an lành, giàu đủ.
Như vậy, bài thơ "Bảo kính cảnh giới" đã thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết và tấm lòng thương dân ái quốc của Nguyễn Trãi. Bài thơ sẽ mãi là một tác phẩm có giá trị to lớn trong nền thơ ca Việt Nam.