Nhà thơ Trần Đăng Khoa nổi tiếng với nhiều tác phẩm thơ hay và đặc sắc. Một trong số đó phải kể đến chính là bài thơ Cùng ông thăm lúa. Bài thơ được đăng trên báo Văn nghệ năm 1968 đã gây lên tiếng vang lớn bởi lối viết hồn nhiên, giản dị nhưng vô cùng sâu sắc. Bài thơ được viết trong hoàn cảnh đất nước ta còn chịu ách thống trị của đế quốc Mỹ. Khi ấy, Trần Đăng Khoa chỉ là một cậu bé tám tuổi ở vùng quê nghèo khó. Tuy vậy, qua ngòi bút tài năng của mình, tác giả đã vẽ nên bức tranh đồng quê thật đẹp, thật đáng tự hào.
Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ:
Năm nay cày cấy vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Âm điệu của hai câu thơ như lời than thở, bộc lộ nỗi buồn trước thực tại. Năm nay, công việc đồng áng của cha ông ta không thuận lợi. Từ "chân thua" kết hợp với sự đối lập giữa "chiêm" và "mùa", "được" và "mất" càng nhấn mạnh hơn nữa những khó khăn mà người nông dân đang gặp phải. Đó có lẽ là hậu quả của chiến tranh để lại; cũng là nỗi đau mà quân thù đã gây ra cho nhân dân ta.
Tiếp đến, hình ảnh cây lúa được khắc họa rõ nét:
Lúa con gái xanh mắt,
Lưng trần phơi nắng giã bao ngày.
Nhà thơ sử dụng hình ảnh ẩn dụ "lúa con gái" để chỉ những cô thiếu nữ đang độ xuân thì. Màu xanh mắt là màu xanh non, mượt mà, óng ả, gợi nên vẻ đẹp duyên dáng, xinh tươi của lúa. Qua cái nhìn của cậu bé Khoa, cây lúa cũng giống như một người con gái đẹp. Ở đây, tác giả đã tinh tế khi kết hợp giữa hình ảnh và màu sắc để tạo nên một câu thơ gợi hình, gợi cảm. Lúa tuy đẹp là thế nhưng vẫn mang đậm chất thôn dã. Người nông dân phải làm việc vất vả, lưng đeo nắng dãi mưa dầm khiến cho tấm lưng gầy còm trở nên thẳng đứng. Họ đã phải đổ biết bao mồ hôi công sức để nuôi dưỡng thân lúa, mầm lúa.
Đến khổ thơ thứ ba, chúng ta thấy được công việc làm cỏ, bón phân, phun thuốc của người nông dân:
Vẫn đôi giày vạn dặm,
Lại lội bùn, lội cỏ,
Dẻo dai sức không ngờ.
Ở đây, hình ảnh đôi giày vạn dặm xuất hiện như một biểu tượng của Bác Hồ kính yêu. Đôi giày đã cùng bác vượt qua muôn trùng khó khăn, bão tuyết Trường Sơn để giờ đây tiếp tục lội bùn, lội cỏ, cùng người nông dân đấu tranh với kẻ thù. Đó chính là đấu tranh với cái rét, cái nóng, với sự khắc nghiệt của thời tiết, với bom đạn của đế quốc Mĩ mà hàng chục năm nay vẫn chưa chịu buông lìa.
Bốn câu thơ cuối cùng chính là ước mong của cậu bé Khoa gửi đến cây lúa:
Ôi lúa thân yêu,
Côm lúa mới xanh,
Sao mà đẹp quá!
Đẹp như đất trời
Tổ quốc em...
Từ "ôi" đặt ở đầu câu thơ như một tiếng thốt lên đầy ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của lúa. Hình ảnh lúa đang thì con gái mang trong mình vẻ đẹp mượt mà, óng ả, duyên dáng, xinh tươi. Dưới đôi mắt trẻ thơ hồn nhiên, trong sáng của Khoa, lúa như quốc hoa của Tổ quốc. Câu thơ cuối được viết theo phép đảo ngữ nhằm nhấn mạnh, khẳng định vị trí, vai trò của cây lúa đối với mỗi người dân Việt Nam. Nó là hiện thân của nền văn minh lúa nước, là biểu tượng của làng quê bất tận, của dòng sữa mẹ ngọt ngào.
Như vậy, bài thơ Cùng ông thăm lúa đã đem đến cho người đọc những cảm nhận thật đẹp đẽ về cây lúa - loài cây gắn liền với hình ảnh người nông dân Việt Nam. Đồng thời, góp phần bồi đắp tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước trong tâm hồn mỗi độc giả.