câu 1: Thể thơ: thất ngôn bát cú Đường luật
câu 2: I. Đọc hiểu
. Các hình ảnh thiên nhiên được tác giả nhắc đến trong bài thơ: ao cạn, bèo, muống; đìa thanh, phát cỏ, ương sen; kho thu, phong nguyệt; thuyền chở, yên hà; núi láng giềng, chim bầu bạn; suối, thông reo, trúc khôn, mai già.
. Những việc Nguyễn Trãi làm khi cáo quan về ở ẩn:
- Vớt bèo, cấy muống, phát cỏ ương sen.
- Kho thu phong nguyệt, thuyền chở yên hà.
=> Cuộc sống giản dị, ung dung, tự tại của nhà thơ nơi quê nhà.
.
- Hai câu luận thể hiện nhân cách cao cả của Nguyễn Trãi:
+ "Bui có một lòng trung" - tấm lòng son sắt, thủy chung với lí tưởng, với đất nước.
+ "Lòng trung" ấy không cần phải "mài", luôn sáng ngời, bất biến.
+ "Một mối xa thư" - mối lo cho đất nước, cho sự nghiệp chung chưa bao giờ nguôi ngoai.
→ Tấm lòng vì dân, vì nước của Nguyễn Trãi.
- Câu kết khẳng định ý thức trách nhiệm trước cuộc đời, trước đất nước.
.
- Bài học rút ra từ bài thơ:
+ Cần có lối sống hòa hợp với thiên nhiên để giữ gìn tâm hồn trong sạch.
+ Sống có trách nhiệm với đất nước, với xã hội.
câu 3: Trong hai câu thơ "Ao cạn vớt bèo cấy muống Đìa thanh phát cỏ ương sen", Nguyễn Trãi đã sử dụng biện pháp tu từ liệt kê với những động từ mạnh như "vớt", "cấy", "phát", "ương". Việc liệt kê này tạo nên hiệu quả nghệ thuật đặc biệt:
- Tăng sức gợi hình: Hình ảnh những hoạt động lao động giản dị nhưng đầy ý nghĩa được khắc họa rõ nét, sinh động, khiến cho bức tranh cuộc sống nơi thôn dã trở nên chân thật, gần gũi.
- Nhấn mạnh sự cần cù, chăm chỉ: Liệt kê những hành động lao động thể hiện sự cần mẫn, chịu thương chịu khó của con người, góp phần khẳng định tinh thần lạc quan, yêu đời của nhà thơ.
- Thể hiện tình yêu thiên nhiên: Qua việc liệt kê những loài cây, hoa, Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu sâu sắc đối với thiên nhiên, với cuộc sống bình dị, mộc mạc.
- Gợi cảm xúc: Sự kết hợp giữa cảnh vật và con người tạo nên một khung cảnh đẹp đẽ, thanh bình, gợi lên cảm giác thư thái, nhẹ nhàng, đồng thời khơi dậy niềm tự hào về quê hương đất nước.
Biện pháp tu từ liệt kê trong đoạn thơ đã góp phần làm nổi bật chủ đề chính của bài thơ: ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống thanh tao, giản dị, đồng thời thể hiện tâm hồn cao đẹp, nhân cách thanh bạch của nhà thơ Nguyễn Trãi.
câu 4: Câu thơ "Ao cạn vớt bèo cấy muống, Đìa thanh phát cỏ ương sen" sử dụng câu thơ lục ngôn để miêu tả cuộc sống giản dị, mộc mạc của Nguyễn Trãi khi cáo quan về quê nhà. Việc sử dụng câu thơ lục ngôn tạo nên nhịp điệu chậm rãi, nhẹ nhàng, phù hợp với nội dung bài thơ, thể hiện sự bình thản, ung dung của tác giả trước những biến cố của cuộc đời. Đồng thời, nó cũng góp phần làm nổi bật hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, thanh bình nơi làng quê Việt Nam.
câu 5: Vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi thể hiện qua bài thơ "Thuật hứng" số 24:
- Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
- Tâm hồn yêu thiên nhiên, hòa mình vào thiên nhiên.
- Tâm hồn lạc quan, ung dung tự tại khi trở về với cuộc sống bình dị nơi thôn quê.
câu 6: Nguyễn Trãi là nhà thơ nổi tiếng của dân tộc ta. Ông để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm hay và có giá trị to lớn. Trong đó, chúng ta không thể không nhắc đến bài thơ Thuật hứng 24. Tác phẩm đã giúp người đọc hiểu hơn về cuộc sống bình dị, an nhàn của Nguyễn Trãi khi cáo quan về ở ẩn.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã nêu lên quan điểm của mình về cuộc sống nơi quan trường và cuộc sống an nhàn nơi quê nhà:
"Công danh đã được hợp về nhàn,
Lành dữ âu chi thế nghị khen."
Tác giả cho rằng công danh quan trụ chỉ khiến con người thêm mệt mỏi và bận tâm. Bởi vậy mà Nguyễn Trãi đã lựa chọn rời xa chốn quan trường để trở về cuộc sống bình dị, gần gũi với thiên nhiên. Từ đây, lão lao đa mang đã không còn phải bận tâm đến những tiếng thị phi, khen chê. Những thứ này không hề có ý nghĩa quan trọng đối với người làm nghề cầm bút. Thay vào đó, ông chỉ mong muốn có một cuộc sống bình yên, hạnh phúc.
Khi trở về quê nhà, Nguyễn Trãi đã có khoảng thời gian vô cùng vui vẻ và thoải mái:
"Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Đìa thanh phát cỏ ương sen."
Cuộc sống của thi sĩ thật giản dị và mộc mạc. Ông dành phần lớn thời gian của mình để chăm sóc cho mảnh vườn nhỏ. Đó là nơi mà Nguyễn Trãi có thể làm mọi việc như một người nông dân thực thụ. Nào là vớt bèo, cấy muống hay phát cỏ, ương sen,... Tất cả đều gợi lên sự gần gũi và thân thuộc.
"Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then."
Không chỉ có vậy, Nguyễn Trãi còn được tận hưởng những phút giây thư thái khi ngồi đếm gió, ngắm trăng. Khung cảnh thiên nhiên lúc này giống như một kho tàng chứa đựng mọi vẻ đẹp. Bóng dáng của thi sĩ hiện lên trong câu thơ trên cũng khiến người đọc cảm thấy thú vị. Dường như, ông đang hòa mình vào trong khung cảnh đêm trăng để đắm chìm trong vẻ đẹp của thiên nhiên.
Tuy đã lui về ở ẩn nhưng Nguyễn Trãi chưa bao giờ quên đi tấm lòng trung quân ái quốc của mình:
"Bui có một lòng trung lẫn hiếu,
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen."
Dù lui về quê ở ẩn nhưng ông vẫn luôn hướng về kinh thành, chờ đợi cơ hội để giúp đỡ nhân dân đất nước. Tấm lòng của Nguyễn Trãi vẫn mãi trước sau như một. Dù là đang ở chức quan cao hay khi đã lui về ở ẩn thì lòng trung hiếu với lãnh tụ và đất nước vẫn sẽ không bao giờ thay đổi. Hai câu thơ cuối bài đã giúp người đọc hiểu rõ hơn về con người của Nguyễn Trãi.
Bài thơ Thuật hứng 24 đã giúp người đọc hiểu rõ hơn về cuộc sống và con người của Nguyễn Trãi. Qua đây, chúng ta càng thêm khâm phục tài năng của ông hơn.