Đặng Toán là nhà thơ chuyên sáng tác thơ lục bát. Thơ ông mang nặng lòng hoài niệm, hồi ức của những ký ức chiến tranh, ký ức tuổi thơ. Trong số đó, bài thơ “Nhớ mẹ” được coi là tác phẩm tiêu biểu nhất của ông. Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh người mẹ tần tảo, lam lũ vì mưu sinh mà phải rời bỏ quê hương, xa lìa đứa con thơ dại để đi bán buôn ở tận vùng chợ xa.
“Trông ra ngoài ruộng melong ra ngoài ao
Lúa cao hơn cả đầu
Mây đen che kín trời
Gió thổi mạnh từng cơn
Sấm chớp ầm ầm
Con dế kêu uôm uôm
Chú chim sẻ đang bay
Về tổ tránh sét
Mẹ vẫn đứng ở bờ sông
Bờ sông vắng vẻ
Trời vẫn mưa tầm tã
Đã mấy hôm nay rồi
Mẹ đứng đó chờ đò”.
Bài thơ mở đầu bằng những hình ảnh thiên nhiên gợi nhắc kỉ niệm về những ngày tháng tuổi thơ gắn bó bên mẹ. Không gian rộng lớn “ngoài ruộng”, “ngoài ao” cùng với hình ảnh “lúa cao hơn cả đầu” hay “mây đen che kín trời/ gió thổi mạnh từng cơn/ sấm chớp ầm ầm” gợi ra một buổi chiều tà giông bão. Trong khoảnh khắc chiều tà ấy, tiếng “con dế kêu uôm uôm” hòa trong âm thanh “chim sẻ đang bay/ Về tổ tránh sét” càng làm nổi bật sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Khi vạn vật đang tìm chỗ trú ẩn, nấp mình tránh khỏi sự tàn phá, giận dữ của trận mưa giông thì em bé và mẹ vẫn “đứng ở bờ sông”. Khoảng cách địa lí giữa hai bờ dường như chẳng là gì so với nỗi niềm mong mỏi được gặp mẹ của đứa trẻ thơ. Vì vậy, dù “bờ sông vắng vẻ”, “trời vẫn mưa tầm tã” và “đã mấy hôm nay rồi” nhưng em vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Cách gọi “mẹ đã về chưa” cho thấy sự trông ngóng đến mòn mỏi của đứa trẻ. Dù mệt nhọc, vất vả nhưng khi nghe tiếng gọi của con, mọi nỗi lo toan đều tan biến hết chỉ còn lại tình yêu thương bao la, vô bờ bến của mẹ dành cho con.
Khổ thơ tiếp theo nói về cuộc sống vất vả của mẹ khi bán buôn ở chợ quê. Đó là hình ảnh “bán buôn lặng lẽ”, là “bánh đa bánh đúc”, là “con trẻ nô đùa” và đặc biệt là hình ảnh “quạt mo” và “đom đóm lập lòe” đã khơi gợi trong lòng người đọc những xúc cảm thật khó phai. Cái quạt mo vốn đã rất quen thuộc với cuộc sống của người dân Việt Nam. Nó gắn liền với những câu ca dao, dân ca, với những lời ru ngọt ngào của bà, của mẹ. Và giờ đây nó trở thành chất liệu để nhà thơ Đặng Toán xây dựng hình tượng người mẹ tảo tần, lam lũ. Những con đom đóm thắp sáng mỗi buổi chiều tà cũng được tác giả đưa vào thơ ca một cách tự nhiên, tinh tế. Ánh sáng lập lòe của đom đóm khiến người đọc liên tưởng tới nụ cười hiền từ, ấm áp của mẹ.
“Rồi mai mẹ đi về nơi xa
Xa lắm không còn về nữa
Đôi dép mòn đứng đợi sân ga
Nước mắt rơi lặng lẽ
Cái cò bay lả bay la….”
Nếu như ở khổ thơ trước, tác giả khẳng định rằng “mẹ về” mỗi buổi chiều thì sang khổ thơ sau, tác giả lại khẳng định “mai mẹ đi về nơi xa”. Hai vế như kéo ra xa, đối lập nhau hoàn toàn. “Xa lắm” không chỉ để nói về khoảng cách địa lí mà còn để nói về khoảng cách của trái tim, của sinh mệnh. Từ nay, “đôi dép mòn” sẽ mãi đứng chờ ở “sân ga” còn “nước mắt” cứ rơi “lặng lẽ” mỗi buổi chiều. Hình ảnh chiếc “dép mòn” là một hình ảnh rất đắt. Nó không chỉ gợi ra hình ảnh đôi chân lam lũ của mẹ mà còn gợi ra cả một quãng đời dài hy sinh thầm lặng của mẹ cho con.
Hình ảnh người mẹ trong bài thơ “Nhớ mẹ” được khắc họa qua những chi tiết, hình ảnh giản dị nhưng đầy xúc động. Qua đó, tác giả đã thể hiện tình cảm sâu sắc, tha thiết của mình dành cho mẹ. Bài thơ đã chạm đến trái tim người đọc bởi những cảm xúc chân thành, mộc mạc và giàu tính nhân văn.
Như vậy, bài thơ “Nhớ mẹ” của Đặng Toán là một bài thơ hay, giàu cảm xúc. Bài thơ đã thể hiện thành công tình mẫu tử thiêng liêng, cao đẹp.