Dưới ngòi bút của nhà văn hiện thực phê phán Nam Cao, bi kịch của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945 đã được thể hiện một cách chân thực, sâu sắc. Truyện ngắn "Chí Phèo" là một kiệt tác, thường được đem so sánh với "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố. Ra đời chỉ vài năm trước Cách mạng, hai tác phẩm đã dựng lên hai bức tranh của xã hội tù đọng, thối nát thời đó. Nhưng tác phẩm nổi bật hơn cả là "Chí Phèo", với nhiều điểm mới trong khám phá, phân tích biện chứng về mối quan hệ phức tạp của đời sống. Đặc biệt, qua tác phẩm này, Nam Cao đã khắc họa rõ nét tấn bi kịch tha hóa và bị cự tuyệt quyền làm người của người nông dân nghèo trong xã hội cũ.
Trước hết, ta thấy được phong cách hiện thực trong việc xây dựng nhân vật. Nhân vật chính của tác phẩm - Chí Phèo - xuất hiện ngay đầu truyện trong dáng vẻ của một con quỷ dữ khiến người đọc không khỏi sợ hãi. Hắn vừa đi vừa chửi "chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn". Nhưng đáp lại tiếng chửi của hắn chỉ là tiếng chó sủa ầm ĩ. Điều ấy đã đẩy Chí Phèo vào một bi kịch đau đớn. Đó là bi kịch của một kẻ bị xã hội ruồng bỏ, muốn được giao tiếp, được trò chuyện mà không ai đáp lại.
Nguyên mẫu của Chí Phèo là một người tên là Chí, làm canh điền cho cụ bá Kiến. Sau khi bị Bá Kiến ghen tuông, đẩy vào tù, Chí biến thành Chí Phèo, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Tuy nhiên, Nam Cao đã thêm vào những chi tiết đắt giá khác, tạo nên một Chí Phèo hoàn hảo hơn. Ngay từ thuở lọt lòng, Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ. Được người làng nuôi nấng, lớn lên Chí đi ở hết nhà này tới nhà nọ. Không ai biết quê hương gốc gác của Chí ở đâu. Đến năm 20 tuổi, Chí làm canh điền cho Bá Kiến. Có thể thấy, nguyên mẫu của Chí Phèo là một người nông dân lương thiện, hiền lành. Nhưng môi trường đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn.
Sau khi bị Bá Kiến đẩy vào tù, Chí Phèo trở thành con người khác hẳn. Nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người lưu manh, côn đồ. Từ một người nông dân hiền lành, chất phác, Chí trở thành một thằng săng đá, chuyên rạch mặt ăn vạ. Hắn trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến, đi đâm thuê chém mướn, đòi nợ thuê. Ngoại hình của Chí cũng thay đổi theo sự tha hóa của hắn. "Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân đã giết chết phần người trong Chí, chỉ còn lại phần con. Hắn trở thành một con thú dữ, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Bi kịch của Chí Phèo chưa dừng lại ở đó. Hắn tiếp tục rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Sau đêm say rượu gặp Thị Nở, Chí Phèo bắt đầu tỉnh rượu. Hắn nhận ra cuộc sống xung quanh mình, nghe thấy những âm thanh quen thuộc mà bấy lâu nay hắn không hề biết đến. Hắn nhớ về ước mơ nhỏ bé của mình ngày xưa: một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải. Khi nhận bát cháo hành từ Thị Nở, Chí càng nhận ra rằng hắn đang bị xã hội ruồng bỏ. Hắn khao khát được quay trở lại làm người lương thiện. Nhưng cánh cửa trở về với cuộc sống lương thiện đã đóng sập trước mặt Chí khi bà cô của Thị Nở dứt khoát không chấp nhận hắn. Chí nhận ra rằng, nếu tiếp tục làm quỷ dữ, hắn vẫn được rượu chè, say xỉn, nhưng nếu muốn làm người, hắn sẽ phải đấu tranh với những con quỷ dữ trong chính bản thân mình. Cuối cùng, Chí Phèo đã lựa chọn cái chết như một sự giải thoát.
Ngoài Chí Phèo, chúng ta còn thấy một Bá Kiến đại diện cho tầng lớp thống trị tàn ác. Bà cô Thị Nở, những thím đời, bọn lí dịch, cường hào địa chủ,... tất cả đều góp phần tạo nên một xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945 đầy bần cùng, tăm tối.
Trong bối cảnh chung đó, phong cách hiện thực của Nam Cao được bộc lộ rõ nét. Ông tập trung vào việc xây dựng nhân vật điển hình, phản ánh chân thực cuộc sống và số phận của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Ngôn ngữ của Nam Cao bình dị, mộc mạc nhưng giàu sức biểu đạt. Ông kết hợp nhuần nhuyễn giữa kể chuyện, miêu tả và biểu cảm, tạo nên những tình huống độc đáo, gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.
Với những đặc trưng trên, "Chí Phèo" xứng đáng là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách hiện thực của Nam Cao. Tác phẩm đã phản ánh chân thực cuộc sống và số phận của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945, đồng thời thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn.