16/08/2025
16/08/2025
Nguyễn Khuyến đã có một thời gian dài gắn bó với chốn quan trường, phục vụ cho dân cho nước. Song ông sớm từ bỏ chốn danh lợi thị phi do bất mãn với chính quyền để về quê ở ẩn. Với tư cách là một người trong cuộc ông thấu hiểu với nỗi vất vả, khốn khó của người dân dưới ách áp bức của thực dân phong kiến. Bài thơ Chốn quê được sáng tác với cảm hứng như thế. Toàn bài thơ là nỗi lòng của ông về cuộc sống khốn khổ trăm đường của nhân dân, ông thương cảm, xót xa cho những cảnh bất hạnh quần quật quanh năm mà đói nghèo vẫn đeo bám.
Sách thơThật ra đề tài về cuộc sống khốn khó của người nông dân trước cách mạng tháng tám không hiếm. Phải nói rất nhiều, những tác phẩm truyện ngắn hiện thực của Nguyễn Công Hoan, Phạm Duy Tốn, những bài thơ của nhiều tác giả khác cùng thời với Nguyễn Khuyến đều đã phản ánh rất nhiều. Song đến với bài thơ Chốn quê của Nguyễn Khuyến chúng ta thấy một màu sắc rất riêng. Ông khai thác trên nền đề tài vốn đã cũ để thổi vào đó luồng gió mới. Cũng là cảnh khổ, cái đói nghèo, cái sự khốn cùng của nhân dân nhưng lại được Nguyễn Khuyến diễn tả một cách nhẹ nhàng, thấm thía. Với những thi liệu rất gần gũi, quen thuộc bài thơ đã mở ra một không khí của chốn làng quê, tuy đói nghèo nhưng vẫn không túng quẫn. Đó là cái nhìn trân trọng của nhà thơ với số phận của những người nông dân trước cách mạng:
Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Những câu thơ như là ông đang nói hộ nỗi niềm của những người nông dân nghèo khổ trong xã hội. Họ như đang ngồi lại với nhau để bộc bạch sự khốn khó của mình. Đó là những cảnh nghèo vất vả trong nhiều năm, bán mặt cho đất bán lưng cho trời vẫn chẳng ăn thua nghĩa là công cốc, chả bỏ ra được gì. Bởi đâu do như vậy? Chẳng phải do người lao động không cố gắng mà vì rất nhiều lý do chủ quan và khách quan khác. Thứ nhất là do mùa màng thất bát, thời tiết không ủng hộ. Thứ hai là do thuế sưu quá nặng, thuế để nộp quan tây, thuế để nộp địa chủ. Thứ ba là công thuê mướn người làm nửa công cho đứa ở, nửa công thuê bò làm ruộng… thành thử trừ tất cả đi người nông dân chẳng còn lại là bao. Cả một mùa vất vả một nắng hai sương ngoài ruộng đồng, thứ họ nhận lại được chẳng đáng với công sức đã bỏ ra. Phép đối và liệt kê đã được sử dụng rất chuẩn chỉnh thể hiện những khó khăn chồng chất khó khăn của người lao động. Đồng thời cũng thể hiện thái độ trân trọng, cảm thông của nhà thơ với những lo toan của người nông dân.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Cần kiệm thế mà không khá nhỉ,
Bao giờ cho biết khỏi đường lo?
Sách thơBốn câu thơ cuối là tiếng thở dài của người lao động. Vì cuộc sống vất vả, khốn khó nên họ đã tằn tiện tiết kiệm từng đồng hào. Bữa ăn đạm bạc chẳng có gì “sớm trưa dưa muối” để cho qua bữa, những thú vui giản dị như trầu chè cũng chẳng dám mua. Mọi thứ đã tiết kiệm hết mức có thể ấy thế mà đời sống vẫn chẳng thay đổi, chẳng khấm khá hơn được.
Câu thơ cuối khép lại bài thơ bằng một câu hỏi tu từ “Bao giờ cho biết khỏi đường lo?” đầy tâm trạng của người lao động. Bao giờ cho hết đường lo đây, nếu xã hội vẫn bất công, chế độ thực dân phong kiến vẫn đàn áp như bây giờ thì đời sống của người nông dân sẽ chẳng bao giờ tốt hơn được.
Bài thơ miêu tả cảnh sống khốn khó của người nông dân bằng ngòi bút chân thực. Nhà thơ như sống cùng với họ, thấu hiểu tâm trạng và nỗi niềm của họ, nói thay nỗi lòng của họ bằng một giọng thơ ngậm ngùi, chua xót. Qua đó chúng ta cũng hiểu thêm về con người Nguyễn Khuyến, một nhà thơ của làng quê Việt Nam, luôn sống và thấu hiểu người dân bằng tất cả tấm lòng của mình.
16/08/2025
Bài thơ *Chốn quê* của Nguyễn Khuyến hiện lên một bức tranh đời sống nông thôn Việt Nam vào cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX với tất cả những khó khăn, nhọc nhằn và nỗi lo cơm áo gạo tiền của người nông dân. Qua những câu thơ giản dị, chân thực, tác giả không chỉ thể hiện hiện thực khắc nghiệt mà còn bộc lộ tấm lòng nhân hậu, yêu thương dân chúng và sự đồng cảm sâu sắc của một nhà nho tài hoa với cốt cách thanh cao.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến vẽ lên bức tranh sản xuất của nông dân: “Năm nay cày cấy vẫn chân thua, / Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.” Những câu thơ này vừa nói về năng suất thấp, vừa phản ánh sự vất vả, khó khăn liên tiếp của người dân nông thôn. Ngôn từ giản dị, gần gũi nhưng lại đầy biểu cảm, khiến người đọc cảm nhận được nỗi lo âu, nhọc nhằn của người nông dân trước thiên tai, mất mùa, đời sống bấp bênh. Sự đối lập giữa mong muốn làm ăn và kết quả thu hoạch ít ỏi được tác giả thể hiện rất tinh tế, vừa thực tế, vừa giàu cảm xúc.
Tiếp đó, tác giả khắc họa thêm những gánh nặng khác mà nông dân phải chịu: “Phần thuế quan Tây, phần trả nợ, / Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.” Những câu thơ này cho thấy không chỉ thiên tai, mùa màng thất bát, mà người nông dân còn phải đối mặt với áp lực thuế má, nợ nần và nhiều khoản chi phí khác. Nguyễn Khuyến sử dụng giọng điệu bình thản, tường thuật, như muốn nhấn mạnh rằng sự khó khăn này đã trở thành lẽ sống hàng ngày, là phần tất yếu của đời sống nông thôn thời bấy giờ.
Nhưng bên cạnh đó, trong cảnh sống thiếu thốn, ông vẫn khéo léo thể hiện một nếp sống thanh bạch, tằn tiện mà vẫn đầy nhân văn: “Sớm trưa dưa muối cho qua bữa, / Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.” Qua đó, tác giả ca ngợi tinh thần chịu khó, tiết kiệm, sống giản dị của người nông dân. Đồng thời, câu kết “Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho” thể hiện niềm tin nhỏ nhoi nhưng kiên định vào cuộc sống, vào những gì tự thân họ tạo ra. Đây cũng là tiếng lòng của Nguyễn Khuyến – một con người thanh cao, từng trải, dù đối diện với bất công thời cuộc vẫn giữ được cốt cách nhân nghĩa, không đầu hàng hoàn cảnh.
Bài thơ không chỉ là bức chân dung hiện thực mà còn là tiếng nói nhân văn sâu sắc. Nguyễn Khuyến đã dùng những chi tiết đời thường, những hình ảnh giản dị để phản ánh hiện thực xã hội, đồng thời khéo léo bộc lộ lòng thương dân, sự đồng cảm với nỗi vất vả của người nông dân. Đọc *Chốn quê*, ta cảm nhận được sự gần gũi, chân thành và sự thức tỉnh về trách nhiệm đối với cuộc sống, đối với cộng đồng.
Tóm lại, bài thơ *Chốn quê* là một tác phẩm vừa phản ánh hiện thực nặng nề của đời sống nông dân, vừa thể hiện cốt cách thanh cao, nhân hậu và tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Khuyến. Qua từng câu chữ giản dị nhưng giàu cảm xúc, tác giả nhắc nhở người đọc trân trọng lao động, biết đồng cảm và sống nhân ái. Đây chính là giá trị nghệ thuật và nhân văn bền vững của bài thơ, đồng thời là bài học sâu sắc cho mỗi thế hệ hôm nay.
Nếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời