Hịch Tướng Sĩ được viết vào khoảng thời gian trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai (1285): Khi giặc Nguyên Mông sang xâm lược nước ta lần thứ hai, lúc này quân dân Đại Việt vừa trải qua 4 năm chịu sự cai trị của vua Trần Anh Tông. Vì thế tinh thần chiến đấu của binh lính có phần đi xuống. Trước tình hình đó, Hội nghị Quân sự Bình Than được triệu tập với chủ trì của Thái sư Trần Quang Khải và Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo nhằm ổn định tình hình quân sỹ. Tại đây, Trần Quốc Tuấn đã đọc bài Hịch này để khích lệ tinh thần chiến đấu của các tướng sĩ. Bài hịch phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, thể hiện lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược của nhân dân ta. Đồng thời tác phẩm còn là một áng văn chương tiêu biểu cho thể hịch với cách lập luận chặt chẽ, lĩ lẽ rõ ràng, giàu hình ảnh, hùng hồn, đĩnh đạc, tràn đầy cảm xúc.
Nội dung chính của "Hịch tướng sĩ" xoay quanh việc Trần Quốc Tuấn nêu cao gương sáng các trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước; tố cáo tội ác của quân giặc; thể hiện lòng căm thù ngút trời đối với quân giặc; nhắc lại mối thâm thù truyền kiếp giữa hai dân tộc Việt- Hán; kêu gọi tướng sĩ nêu cao tinh thần trung quân ái quốc, đánh đuổi ngoại bang ra khỏi bờ cõi đất nước.
Trước hết, tác giả nêu những tấm gương về lòng trung nghĩa của các bậc trung thần nghĩa sĩ ở Trung Quốc xưa nay nhằm mục đích khơi dậy niềm tự hào và ý thức trách nhiệm của các tướng sĩ. Đó là những tấm gương như Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước; Kính Đức, một vị đại thần đời nhà Hán, gần trăm tuổi, dám xông vào chỗ hiểm nguy để bảo vệ chúa; Cảo Khanh, một vị đại thần đời nhà Tấn, già mà không nên khôn, chỉ ham sống sợ chết đến nỗi phải chịu nhục chui qua chân giặc... Những hành động cao cả, đáng khen ngợi ấy trái ngược hẳn với thói hèn nhát, bạc nhược của bọn quan lại nhà Tống khi bị giặc Nguyên-Mông xâm chiếm: "Lũ giặc dữ quái kia đừng mê đắm bởi đất đai phong phú và phẳng lặng, tuy êm đềm nhưng chẳng khác gì cái hố lông mù mịt tăm tối". Từ đó, ông đặt vấn đề: "Huống chi, ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu vàng bạc, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau!". Lời văn mạnh mẽ, đanh thép, lên án gay gắt sự hống hách, tham lam của quân giặc đồng thời thể hiện thái độ căm thù đến tột cùng.
Tiếp đến, ông nói lên mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, nhắc nhở họ về mối thù nhà, nợ nước chưa trả: "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm." Qua câu văn trên, chúng ta thấy rằng Trần Quốc Tuấn luôn trăn trở, canh cánh trong lòng về vận mệnh đất nước, ông sẵn sàng hi sinh để bảo vệ non sông. Để rồi từ đó, ông nêu cao tinh thần kỉ cương, phép tắc trong quân đội, khuyên răn tướng sĩ phải biết rèn luyện, phải tỉnh táo, cảnh giác trước kẻ thù: "Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười." Ông còn phê phán những trò tiêu khiển, thú ăn chơi hưởng lạc và những việc riêng tư khiến cho tướng sĩ lơ là việc luyện tập, ảnh hưởng đến vận mệnh đất nước: "cựa gà trống không thể đâm thùng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm, vườn nhiều, tấm thân quí nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu; việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ không đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai."
Cuối cùng, ông nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ tổ quốc: "Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Nêu vậy, các ngươi hãy đào núi lấp sông, diệt trừ nòi giống chúng để giữ lấy eng đài muôn thuở!"
Bài hịch kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và văn chương đã phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của vị tướng tài ba trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Tác phẩm không chỉ là bài ca về lòng yêu nước, bài ca về tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược mà còn là bài học về đạo lí làm người của một vị anh hùng dân tộc.