Kim Lân là một trong những cây bút xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông chuyên viết về đề tài người nông dân nghèo với ngòi bút chân thành mà sâu sắc. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông. Cùng viết về chủ đề người nông dân nhưng nếu Kim Lân đi sâu vào phản ánh cuộc sống khốn khổ của người nông dân dưới chế độ phong kiến thực dân thì Tô Hoài lại tìm hiểu số phận của những con người nhỏ bé nơi vùng cao Tây Bắc. Hai tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ đã thể hiện rõ nét tài năng nghệ thuật của mỗi nhà văn.
Cả hai tác phẩm đều lấy cảm hứng từ cuộc sống thực tế nên mang đậm giá trị hiện thực. Đó là bức tranh chân thực về xã hội đương thời dưới chế độ phong kiến thực dân. Trong Vợ nhặt, đó là nạn đói năm 1945 với hai triệu người chết đói. Cái đói kéo dài suốt mấy tháng trời, người chết như ngả rạ. Không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và xác người. Còn trong Vợ chồng A Phủ, đó là hiện thực tàn khốc của chế độ phong kiến sứ quân. Mỗi vùng miền có một chế độ áp bức riêng. Ở miền xuôi, bọn thực dân với chính sách bóc lột vô cùng thâm độc khiến người dân lao động nghèo khổ lay lắt bên bờ cái chết. Còn ở miền núi, cường quyền phong kiến chúa đất tha hồ thao túng, bắt ép người dân làm việc quần quật không công, nếu chống cự sẽ bị đánh đập, tra tấn dã man.
Hai tác phẩm đều xoay quanh số phận của những người nông dân nghèo khổ, bất hạnh. Họ là nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh, phải chịu mọi nỗi khổ đau do chế độ phong kiến gây nên. Nhân vật chính trong cả hai tác phẩm đều là phụ nữ. Nếu Thị là một người đàn bà nghèo khổ, bất hạnh, không có gia đình, không có cửa nhà, không họ hàng thân thích, sống bằng nghề mò cua bắt ốc, thì Mị lại là một cô gái xinh đẹp, tài năng nhưng vì hoàn cảnh mà trở thành con dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra. Cuộc sống cơ cực, tủi nhục đã cướp đi tuổi trẻ của Mị, biến cô từ một người phụ nữ tràn đầy sức sống thành một kẻ lầm lũi, cam chịu.
Về nghệ thuật xây dựng nhân vật, cả Kim Lân và Tô Hoài đều rất thành công. Với Vợ nhặt, nhà văn đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo: một anh chàng ngụ cư đang đói khát lại lấy được vợ một cách tình cờ dễ dàng chỉ bằng vài câu nói đùa. Điều này đã tạo ra sự tò mò và hấp dẫn cho người đọc ngay từ đầu tác phẩm. Diễn biến tâm trạng của nhân vật được miêu tả sinh động, chân thực. Tâm lý của Thị lúc mới gặp Tràng, buổi tối đầu tiên Thị về nhà chồng, trưa ngày hôm sau khi dậy sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa,... được khắc họa rất tinh tế. Ngôn ngữ kể chuyện mộc mạc, giản dị, gần gũi với đời sống hằng ngày. Với Vợ chồng A Phủ, nhà văn đã xây dựng được những nhân vật sống động, có cá tính ổn định. Mị hiện lên trong tác phẩm với vẻ buồn rười rượi, luôn cúi mặt, mặt buồn rười rượi. A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, gan góc, biết vượt lên số phận khắc nghiệt. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị được thể hiện rõ nét trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ. Ngôn ngữ giàu tính tạo hình và chất thơ.
Tuy nhiên, bên cạnh những nét tương đồng, hai tác phẩm vẫn có những nét khác biệt. Về bối cảnh xã hội, Vợ nhặt phản ánh nạn đói năm 1945 ở miền xuôi, còn Vợ chồng A Phủ phản ánh cuộc sống nô lệ của người dân miền núi. Về cách thức phản ánh, Vợ nhặt tập trung vào việc tố cáo tội ác của thực dân Pháp, còn Vợ chồng A Phủ tập trung vào việc vạch trần bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị phong kiến. Về kết thúc, Vợ nhặt kết thúc với niềm tin vào tương lai tươi sáng, còn Vợ chồng A Phủ kết thúc với hình ảnh Mị và A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài, tìm đến con đường cách mạng.
Tóm lại, Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ là hai tác phẩm tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Mỗi tác phẩm có những nét đặc sắc riêng, nhưng đều thể hiện tài năng nghệ thuật của hai nhà văn Kim Lân và Tô Hoài.