Tố Hữu là lá cờ đầu của nền văn học Việt Nam. Thơ ông là tấm gương phản chiếu cuộc sống, chiến đấu anh hùng của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến trường kì. Không chỉ thế, thơ ông còn chứa đựng lí tưởng cộng sản, tình yêu quê hương, đất nước thiết tha, nồng nàn. Đặc biệt, thơ ông còn là những dòng nhật kí bằng thơ ghi lại những cảm xúc, suy tư của nhà thơ trong suốt chặng đường đời hoạt động cách mạng. Điều này được thể hiện rõ nét qua thi phẩm "Bác ơi". Thi phẩm được ra đời vào tháng 10/1969, khi mà miền Bắc vừa trải qua cơn lũ lịch sử, khiến bao nhiêu người phải thiệt mạng. Nhưng bù lại, vào khoảng thời gian ấy, thì người cha già dân tộc của chúng ta cũng đang lâm bệnh nặng. Khi đọc được tin này, nhà thơ đã không khỏi bàng hoàng và đau xót mà viết nên bài thơ.
Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, tác giả đã bộc lộ nỗi bàng hoàng, đau đớn khôn nguôi khi nghe tin Bác mất:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa...
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa!
Những câu thơ trên đã thể hiện nỗi đau xót vô hạn của nhà thơ khi nghe tin Bác mất. Bằng việc sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh trong cụm từ "đau tiễn đưa", tác giả đã giảm đi phần nào nỗi đau đang trực tràn ra bờ môi, để người dân bớt đi phần xót xa. Cùng với đó, là việc kết hợp giữa kênh chữ và kênh hình, tạo nên sự cộng hưởng về cảm xúc. Sự đồng điệu giữa nỗi đau của con người và thiên nhiên, làm cho nỗi đau như được nhân lên gấp bội lần.
Sau nỗi đau xót, nhà thơ đã hồi tưởng lại những kỉ niệm tươi đẹp khi Bác Hồ còn sống:
Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bên thang gác, đứng nhìn lên
Chuông ôi chuông nhỏ còn reo
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!
Khổ thơ trên đã tái hiện lại khung cảnh ngày Bác trở về chốn vĩnh hằng. Đó là hình ảnh của một người con miền Nam đang lần mò từng bậc đá để được gặp Bác lần cuối cùng. Thế nhưng, khi đến nơi, thì nhà thơ chỉ thấy được sự trống vắng, lẻ loi. Chuông không reo, phòng tối om, rèm cửa buông xuống, đèn điện tắt ngấm. Tất cả như hòa vào nỗi đau đang trào dâng trong lòng người con phương xa.
Tiếp nối mạch cảm xúc, khổ thơ thứ ba đã tái hiện lại cuộc đời thanh bạch, giản dị của Người:
Trái tim Bác lớn nhưng đài các nhỏ
Mà Bác vẫn ở rất đỗi thanh cao!
Với việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ "cây tre", nhà thơ đã khéo léo gợi lên vẻ đẹp bình dị, thanh cao của Bác. Đồng thời, khẳng định rằng, tuy Bác đã ra đi thật rồi, nhưng hình ảnh về một vị lãnh tụ vĩ đại, đáng kính của toàn dân tộc thì sẽ còn mãi trường tồn với thời gian.
Để khép lại bài thơ, tác giả đã bày tỏ tình cảm của mình dành cho Bác:
Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn
Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn
Xin trên ngàn mây đưa tiếng hát
Như lời Bác ủ chân thành thuỷ chung.
Đó là tình cảm của một người cháu dành cho người bác, người cha. Nhà thơ tự ví mình như "đôi dép cũ" , để bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc trước những công lao to lớn của Người. Đồng thời, khẳng định rằng, nhờ có Bác soi đường chỉ lối, mà dân tộc ta mới có được độc lập, tự do như ngày hôm nay. Và để đáp lại ân tình ấy, thì toàn dân tộc sẽ cố gắng thực hiện tốt di chúc mà Người đã để lại.
Có thể đánh giá rằng, Bác ơi! là một bài thơ hay, giàu giá trị nghệ thuật và tư tưởng nhân văn.