Lê Lợi (1385 – 1433) là vị vua sáng lập ra nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống lại quân Minh xâm lược và giành thắng lợi sau 10 năm chiến tranh (1418 – 1427). Lê Lợi là một vị anh hùng dân tộc lỗi lạc, một nhà quân sự tài ba, một nhà chính trị sáng suốt, một nhà ngoại giao tài ba. Ông đã có công lao to lớn trong việc giành lại độc lập cho dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Lê Lợi là tấm gương sáng cho thế hệ mai sau noi theo.
Tiểu sử
Lê Thái Tổ (1428-1433) sinh ngày 6 tháng Tám năm Ất Sửu - 10/9/1385, là con trai thứ 3 của ông Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Thương, người ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá. Ngay từ khi còn trẻ, Lê Lợi đã tỏ ra là người thông minh, dũng lược, đức độ hơn người, dáng người hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai phải có nốt ruồi đỏ lớn, tiếng nói như chuông, bậc thức giả biết ngay là người phi thường. Lớn lên, ông làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, ông chăm chỉ dùi mài đọc sách và binh pháp, nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu trí, chiêu tập dân lưu tán, hăng hái dấy nghĩa binh, mong trừ loạn lớn. Mùa xuân năm Mậu Tuất - 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú v.v... phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên đánh giặc cứu nước. Suốt 10 năm nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi..
Tài năng quân sự
Cách đây 600 năm, Lê Lợi - lãnh tụ kiệt xuất của nghĩa quân Lam Sơn, bằng những sách lược đúng đắn đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn, chấm dứt ách đô hộ của nhà Minh. Những kế sách đó vẫn còn nguyên giá trị, cần tiếp tục nghiên cứu, phát triển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Lê Lợi được xem là một lãnh đạo tài ba, sẵn sàng đảm đương trách nhiệm lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và giữ vững tinh thần đoàn kết của nghĩa quân. Ông đã kêu gọi nhân dân đánh quân Minh cứu nước và tự xưng là Bình Định Vương, truyền động lực cho cuộc khởi nghĩa.
Dựa vào dân để xây dựng, phát triển lực lượng, tạo sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù. Đây là sách lược đúng đắn, xuyên suốt và giữ vai trò quan trọng hàng đầu, nhằm xây dựng lực lượng nghĩa quân từ dân chúng để tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân đánh giặc. Sách lược này xuất phát từ nhận thức của Lê Lợi về thời, thế; vai trò, khả năng to lớn của nhân dân đối với cuộc khởi nghĩa. Đồng thời, đó cũng là biểu hiện sự cảm thông sâu sắc của Ông trước những khát vọng độc lập dân tộc của nhân dân. Hơn nữa, quy luật của chiến tranh là mạnh được, yếu thua. Trong khi quân Minh có tiềm lực quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần, muốn chiến thắng chúng, nghĩa quân cần phải tạo ra sức mạnh hơn hẳn địch. Chính vì thế, dựa vào lực lượng đông đảo của dân chúng để xây dựng, phát triển lực lượng từ không đến có, ít thành nhiều, có sức mạnh tổng hợp vượt trội đối phương là sách lược hoàn toàn đúng đắn. Trên cơ sở quán triệt sâu sắc tư tưởng “Việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, Lê Lợi đã trực tiếp chỉ đạo nghĩa quân tiến hành nhiều biện pháp phù hợp để huy động mọi lực lượng yêu nước tham gia khởi nghĩa; phát huy cao độ vị trí, vai trò, khả năng to lớn của nhân dân đối với sự nghiệp đánh đuổi giặc Minh, giải phóng dân tộc. Đây là điểm khác căn bản về đường lối chỉ đạo kháng chiến của người đứng đầu Khởi nghĩa Lam Sơn với những cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh trước đó. Chính từ điểm khác biệt nhưng hết sức đúng đắn này, Lê Lợi đã xây dựng được khối đoàn kết toàn dân, tạo sức mạnh tổng hợp, đánh giặc, giành thắng lợi.
Thực tế cho thấy, sự kiện 19 người tham gia Hội thề Lũng Nhai, đặt cơ sở hình thành lực lượng nòng cốt lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đã thể hiện sự tập hợp đông đủ mọi tầng lớp yêu nước trong xã hội. Khi dựng cờ khởi nghĩa, Lê Lợi cho truyền hịch đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân hưởng ứng, anh hùng hào kiệt dần quy tụ về Lam Sơn. Việc chọn Lam Sơn làm căn cứ cuộc khởi nghĩa cho thấy, Lê Lợi không những nhìn thấy ở đó sức mạnh vật chất to lớn (địa thế hiểm có thế công, thủ dễ dàng và rất phù hợp với chiến tranh du kích trong buổi đầu, khi tương quan lực lượng còn quá chênh lệch), mà còn quan trọng hơn, nghĩa quân có một cơ sở hậu cần chiến lược với sức người, sức của to lớn của miền Thanh - Nghệ, đặc biệt là sự tham gia, giúp đỡ của đồng bào các dân tộc nơi đây.
Lê Lợi không chỉ tự mình tài trợ mà còn tài năng trong việc tuyển chọn và đào tạo các tướng sĩ tài hoa. Nguyễn Trãi, Lê Lai, Nguyễn Chích, và nhiều tướng lĩnh khác là những ví dụ điển hình. Sự hợp nhất của những tài năng này đã làm cho nghĩa quân mạnh mẽ và đa dạng.
Chiến thuật và mưu lược tài tình, Lê Lợi và người thầy Nguyễn Trãi đã đưa ra nhiều chiến thuật và mưu lược đúng đắn. Cuộc khởi nghĩa không chỉ là một cuộc chiến tranh tập thể mà còn là một cuộc đấu tranh tinh thần và chiến thuật đầy mưu trí. Sự khéo léo trong việc sử dụng địa hình và thay đổi chiến thuật đã giúp nghĩa quân chiến thắng trước quân Minh.
Vừa là nhà tổ chức và chỉ đạo chiến lược về chính trị, quân sự, vừa là vị tướng cầm quân mưu trí, quả quyết, Lê Lợi đã vận dụng lối đánh "vây thành diệt viện" theo lý thuyết quân sự ông nghiền ngẫm: Đánh thành là hạ sách. Ta đánh thành kiên cố hàng năm, hàng tháng không lấy được, quân ta sức mỏi, khí nhụt, nếu viện binh giặc lại đến thì ta đằng trước, đằng sau đều bị giặc đánh, đó là đường nguy. Chi bằng nuôi sức khỏe, chứa khí hăng để đợi quân cứu viện tới. Khi viện binh bị phá thì thành tất phải hàng". Chiến thuật "Vây thành diệt viện" của Lê Lợi kết hợp với chủ trương "mưu phạt nhị tâm công", uy hiếp, phân hóa, chiêu dụ địch của Nguyễn Trãi tạo nên một phương thức độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Sự kết hợp giữa quân sự và ngoại giao, Lê Lợi không chỉ biết chiến đấu mạnh mẽ mà còn hiểu rằng sự kết hợp giữa quân sự và ngoại giao có thể giúp đánh bại quân Minh. Ông đã dùng chiến thuật rút lui và tiến công theo chiến thuật "lùi một bước để tiến hai bước" để đánh bại quân Minh. Cảnh cáo của Lê Lợi cho quân Minh đã giúp tạo điều kiện cho cuộc hòa giải, chuẩn bị cho cuộc tấn công mạnh mẽ hơn sau đó.
Dẫn binh thần tốc. Lê Lợi biết cách thúc đẩy tinh thần của nghĩa quân, khích lệ họ vượt qua những khó khăn và thách thức. Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì đoàn kết và quyết tâm của nghĩa quân trong suốt cuộc khởi nghĩa.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã thắng lợi không chỉ nhờ vào tài năng quân sự của Lê Lợi mà còn nhờ vào sự đoàn kết của một đội quân đa dạng và quyết tâm của mọi người trong cuộc khởi nghĩa. Lê Lợi và các tướng lĩnh tài hoa đã đóng góp quan trọng vào việc khôi phục độc lập cho nước Việt Nam.
Đánh giá
Trần Cảo là người mà Lê Lợi đưa ra cho nhà Minh để lập làm An Nam quốc vương của Đại Việt. Tuy nhiên Trần Cảo do biết bản thân không có tài nên bỏ trốn, sau bị bắt lại và bị ép uống thuốc độc mà chết. Đến ngày 15 tháng 4 năm 1428 âm lịch, Lê Lợi từ điện Tranh ở Bồ Đề vào thành Đông Quan, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, đặt quốc hiệu là Đại Việt, lấy Đông Kinh làm thủ đô, xưng là Thuận Thiên Thừa Vận Duệ Văn Anh Vũ Đại Vương, hiệu là Lam Sơn động chủ, sử gọi là Thái Tổ Cao Hoàng đế, dựng lên nhà Hậu Lê.
Lê Thái Tổ khi lên ngôi đã ban hành nhiều chính sách cải cách nhằm giúp đất nước phát triển, người dân được ấm no. Mặt khác ông vẫn giữ thái độ hòa hảo với nhà Minh, hàng năm vẫn cống nạp tiền vàng. Tuy nhiên nhà Minh nhất quyết không chịu công nhận ông là hoàng đế Đại Việt, mà chỉ coi là An Nam quốc vương mà thôi.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ mở đầu tới kết thúc thắng lợi (tháng 12-1427), qua các giai đoạn phát triển và chiến lược, chiến thuật của nó đã chứng minh Lê Lợi là người có tầm vóc của một thiên tài, một nhân cách vĩ đại, chỉ thấy ở những lãnh tụ mở đường, khai sáng. Nếu Ngô Quyền với chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt thời kỳ 1.000 năm mất nước, mở đầu thời kỳ độc lập mới của dân tộc thì Lê Lợi với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, kết thúc 20 năm thống trị của giặc Minh, khôi phục nền độc lập lâu dài cho Tổ quốc, bắt đầu một kỷ nguyên xây dựng mới. Không có Lê Lợi, không có phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Nhưng Lê Lợi không chỉ là người nhen nhóm, tạo lập ra tổ chức khởi nghĩa Lam Sơn mà ông còn là nhà chỉ đạo chiến lược kiệt xuất. Một nét đặc sắc, mới mẻ trong đường lối chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Minh mà Lê Lợi thực hiện là dựa vào nhân dân để tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc. Nhìn vào lực lượng nghĩa binh và bộ chỉ huy, tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa, có thể thấy rõ tính chất nhân dân rộng rãi của nó, một đặc điểm nổi bật không có ở các cuộc khởi nghĩa khác chống Minh trước đó. Dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng xã hội trong một tổ chức chiến đấu, rồi từ cuộc khởi nghĩa ở một địa phương, lấy núi rừng làm căn cứ địa, phát triển sâu rộng thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trên quy mô toàn quốc. Đây là một cống hiến sáng tạo to lớn về đường lối chiến tranh của Lê Lợi và bộ tham mưu của ông, để lại một kinh nghiệm lịch sử quý giá.