Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của ông gắn liền với kiệt tác “Truyện Kiều”. Tác phẩm không chỉ thành công về giá trị nội dung mà còn rất đặc sắc về nghệ thuật. Trong đó phải kể đến nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật. Điều đó được thể hiện rõ qua đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” và đặc biệt là tám câu thơ sau:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Đoạn thơ trên nằm trong phần đầu của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, khi Thúy Kiều đang bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để ép nàng làm gái lầu xanh. Đoạn thơ thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn tủi và lo lắng của Thúy Kiều trước khung cảnh thiên nhiên rộng lớn nhưng hoang vu, vắng lặng. Tám câu thơ được chia thành hai cặp lục bát, mỗi cặp thơ đều mở đầu bằng cụm từ “buồn trông” và kết thúc bằng hình ảnh thiên nhiên. Cụm từ “buồn trông” được lặp đi lặp lại nhiều lần, thể hiện sự triền miên, dai dẳng của nỗi buồn trong tâm trạng của Thúy Kiều. Cảnh vật thiên nhiên cũng góp phần tô đậm thêm nỗi buồn ấy. Khung cảnh cửa bể vào buổi chiều tà gợi lên sự mênh mông, hoang vắng, gợi lên cảm giác cô đơn, lạc lõng của con người. Hình ảnh chiếc thuyền nhỏ bé, lẻ loi giữa biển khơi rộng lớn càng khiến cho nỗi buồn của Thúy Kiều trở nên sâu sắc hơn. Cánh buồm xa xa thấp thoáng như một điểm nhấn duy nhất giữa biển cả bao la, nhưng nó cũng chỉ là một thứ vô định, mờ ảo, không mang lại niềm hy vọng gì cho Thúy Kiều. Hình ảnh ngọn nước mới sa gợi lên sự chảy trôi, biến đổi không ngừng của thời gian và cuộc đời. Hoa trôi man mác biết là về đâu? Câu hỏi tu từ đặt ra một nỗi băn khoăn, trăn trở về tương lai của Thúy Kiều. Nàng tự hỏi mình sẽ đi về đâu, sẽ sống ra sao trong những ngày tháng sắp tới. Hình ảnh nội cỏ rầu rầu gợi lên sự tàn lụi, héo úa của vạn vật. Chân mây mặt đất một màu xanh xanh gợi lên sự mênh mông, vô tận của không gian, khiến cho con người càng trở nên nhỏ bé, cô đơn. Hình ảnh gió cuốn mặt duềnh gợi lên sự dữ dội, mãnh liệt của thiên nhiên. Tiếng sóng ầm ầm kêu quanh ghế ngồi càng làm tăng thêm sự hãi hùng, sợ hãi trong tâm trạng của Thúy Kiều. Bằng việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa,... Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên vừa đẹp đẽ, trữ tình, vừa u ám, thê lương. Bức tranh ấy chính là tấm gương phản chiếu tâm trạng của Thúy Kiều. Nàng cảm thấy mình nhỏ bé, cô đơn, lạc lõng giữa thế giới rộng lớn. Nỗi buồn của nàng không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà còn là nỗi buồn chung của những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh trong xã hội xưa. Qua tám câu thơ trên, ta có thể thấy được tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của Nguyễn Du. Ông đã sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh một cách tinh tế, điêu luyện để tái hiện một cách chân thực và sinh động tâm trạng của Thúy Kiều. Đoạn thơ đã góp phần làm nên thành công của “Truyện Kiều” và khẳng định vị trí của Nguyễn Du trong nền văn học dân tộc.