Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Bài thơ Tràng giang là một sáng tác tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận. Tác phẩm đã bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha. Điều này được thể hiện rõ nét qua khổ thơ đầu tiên của bài thơ.
Ngay từ nhan đề, nhà thơ đã khéo léo gợi ra khung cảnh sông nước mênh mang, bát ngát. Từ Hán Việt "tràng giang" vừa giúp người đọc liên tưởng đến không gian rộng lớn của con sông, vừa gợi ra hình ảnh con sông cổ kính, lâu đời. Không chỉ vậy, từ láy "tràng giang" còn được đảo lên đầu câu, càng tô đậm thêm ấn tượng về một con sông dài, rộng biết bao. Trên nền không gian ấy, hình ảnh con người, cảnh vật dần hiện ra:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Bức tranh thiên nhiên mở ra trước mắt người đọc với những con sóng lăn tăn gợn nhẹ, nối tiếp nhau đến vô cùng. Những con sóng "buồn điệp điệp" ấy cứ trải dài tới mãi mãi, kéo theo cả nỗi buồn miên man không dứt. Dường như, tâm trạng của thi nhân đã hòa vào làm một với những con sóng "buồn điệp điệp". Đồng thời, qua hình ảnh những con sóng, Huy Cận cũng muốn bày tỏ nỗi ưu tư, trăn trở của bản thân. Hình ảnh đối lập: "con thuyền xuôi mái" với "nước song song" gợi ra một cảnh sông nước tĩnh lặng. Động từ "xuôi" khiến người đọc có cảm giác như con thuyền đang tự mình di chuyển theo dòng chảy của nước, mà không phải bị tác động bởi sức gió. Thuyền và nước nhuốm màu buồn, chia lìa xa cách "thuyền về nước lại". Cách sử dụng thủ pháp đối lập "một cành củi khô" với "mấy dòng nước lũ" đã phần nào khắc họa được tâm trạng lo âu, bơ vơ của tác giả trước cuộc đời rộng lớn. Cành củi khô chính là ẩn dụ cho thi nhân, nhỏ bé, đơn độc giữa dòng đời. Như vậy, chỉ bằng vài nét chấm phá, Huy Cận đã vẽ nên bức tranh sông nước mênh mang, bất tận, qua đó bộc lộ nỗi buồn, cô đơn trước vũ trụ rộng lớn.
Không dừng lại ở đó, nhà thơ còn sử dụng hàng loạt từ láy gợi âm, gợi hình: "điệp điệp", "song song" khiến cho người đọc cảm nhận được cảnh sông nước trải dài, rộng lớn hơn, nỗi buồn cũng dài dằng dặc hơn. Bên cạnh đó, nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập: "buồn điệp điệp" với "nước song song", "thuyền về nước lại" với "củi một cành khô lạc mấy dòng",... Tất cả những biện pháp nghệ thuật ấy đã góp phần khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên ảm đạm, quạnh hiu và nỗi buồn miên man của tác giả.
Như vậy, chỉ với khổ thơ đầu tiên, Huy Cận đã vẽ nên bức tranh sông nước mênh mang, bất tận, qua đó bộc lộ nỗi buồn, cô đơn trước vũ trụ rộng lớn. Đó chính là nỗi buồn của thế hệ thanh niên trí thức lúc bấy giờ trước hoàn cảnh đất nước đầy đau thương.