Mẫu 1
Lời giải chi tiết:
Nhân vật Đăm Săn nổi bật lên trong toàn bộ cuốn sử thi nói chung và đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” nói riêng hai khía cạnh. Một mặt, đó là con người hội đủ những phẩm chất cá nhân như trí tuệ, tài năng, nhân cách, khát vọng. Mặt khác, đó còn là sự gắn bó, liên kết với cộng đồng mà chính chàng là tù trưởng. Với cái nhìn ấy, ta thấy nhân vật Đăm Săn đã tự khẳng định mình trong những biến cố, sự kiện ở đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”.
Xét về tình tiết trong mô hình cốt truyện thì cuộc giao tranh giữa Đăm Săn với các tù trưởng khác không chỉ xảy ra có một lần. Dường như nhu cầu mở rộng lãnh địa, tăng cường lực lượng, khẳng định quyền uy... là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những cuộc giao tranh ấy. Nhưng trong các cuộc chiến xảy ra thì cuộc đối mặt giữa Đăm Săn với Mtao Mxây có tính chất điển hình hơn cả.
Đối thủ của Đăm Săn là Mtao Mxây, một đối thủ ngang tầm. Tuy võ nghệ không thuộc hàng cao thủ nhưng Mtao Mxây là một kẻ “túc trí đa mưu”, lấy sự sắc sảo, khôn ngoan làm sức mạnh cho mình. Không tin vào bản thân thì làm sao dám táo tợn cướp vợ của Đăm Săn! Và khi biết Đăm Săn tới để làm gì rồi mà còn khiêu khích “Ta không xuống đâu, diêng ơi. Tay ta đang còn bận ôm vợ hai chúng ta…”.
Thái độ nghênh chiến của Mtao Mxây khá đàng hoàng: “Bà con xem, khiên hắn tròn như đầu cú, gươm hắn óng ánh như cái cầu vồng. Trông hắn dữ tợn như một vị thần”. Có thể nói, đó là tư thế tự tin. Tự tin nhưng thận trọng. Hai lần Mtao Mxây nhắc Đăm Săn không được đâm mình khi Mtao Mxây đi xuống và lúc đi xuống rồi vẫn còn do dự, đắn đo. Cách ứng xử của Mtao Mxây theo lối “quân tử phòng thân” luôn đề phòng bất trắc.
Bước vào cuộc chiến, Mtao Mxây nhường cho Đăm Săn múa khiên trước với một thái độ khiêm tốn giả vờ. Giả vờ nói rằng võ nghệ của mình kém cỏi: “Ta như gà làng mới mọc cựa, như gà rừng mới mọc cựa êchăm, chưa ai giẫm phải mà đã gãy mất cánh”. Võ nghệ ấy là chắp vá: “Có cậu, ta học cậu. Có bác, ta học bác. Có thần Rồng, ta học thần Rồng”. Nhưng từ sự giả vờ ấy đã lộ ra một câu nói thật: “Thế ngươi không biết ta đây là một tướng đã quen đi đánh thiên hạ, bắt tù binh, đã quên đi xéo nát đất đai thiên hạ hay sao?”. Không phải vô tình mà câu kể khan của người dẫn truyện ngay từ đầu đã phác ra cái vẻ sang trọng, tôn nghiêm, bề thế của Mtao Mxây, một tù trưởng giàu mạnh trong vùng. Cái cách giả vờ ấy phải chăng làm cho đối thủ chủ quan, khinh suất?
Mặc cho Đăm Săn khinh bỉ, mặc cho mình múa khiên không đẹp (múa “kêu lạch xạch như quả mướp khô”), tốc độ lại chậm chạp, nặng nề (“bước cao bước thấp”) nhưng Mtao Mxây không nản lòng. Y rắp tâm chờ cơ hội. Và khi cơ hội đến, hành động của Mtao Mxây nhanh hơn một chớp mắt: đâm lén Đăm Săn. Khi Mtao Mxây “chém phập một cái”, chắc chắn Đăm Săn không khỏi giật mình. May cho Đăm Săn là nhát chém quá nhanh và không ngờ ấy của địch lợi hại “chỉ vừa trúng một cái chão cột trâu”.
Hai trợ thủ cuối cùng của Mtao Mxây là miếng trầu của Hơ Nhị và cái áo giáp che thân. Đăm Săn chỉ vô hiệu hóa được con bài thứ nhất, đến con bài thứ hai thì Đăm Săn đã bất lực hoàn toàn. Đùi Mtao Mxây bị đâm trúng nhưng không thủng, người Mtao Mxây cũng thế. Nếu không có sự giúp sức của Ông Trời thì Đăm Săn chắc chắn sẽ trắng tay, cả danh dự và quyền uy vì chàng sẽ là người bại trận.
Nhìn chung cách khắc họa nhân vật (cả Mtao Mxây và Đăm Săn) của đoạn trích là kết hợp hai yếu tố: đối thoại giữa các nhân vật và lời người dẫn chuyện. Riêng với nhân vật Đăm Săn, tác giả cuốn truyện còn thực hiện phép đối xứng nghệ thuật nữa. Bằng cách ấy, nhân vật Đăm Săn xuất hiện như một điểm nhấn rực rỡ, sáng ngời.
Trước hết, chàng là người cương trực, thẳng thắn, không đê tiện, nhỏ nhen. Bởi vậy khi chạm vào những ý nghĩa hèn hạ, mờ ám của Mtao Mxây, Đăm Săn như người đụng phải lửa. Hai lần Mtao Mxây cất tiếng (“không được đàm ta khi ta đang đi xuống”) là hai lần Đăm Săn như thấy lòng tự trọng bị tổn thương. Qua đối thoại của chàng, ta cảm nhận được sự khinh khi, tức giận: “Ngươi xem, đến con lợn nái của nhà ngươi dưới đất, ta cũng không thèm đâm nữa là!”. Và đối lập với những ý nghĩ vẩn đục của Mtao Mxây, tâm hồn của Đăm Săn thật là trong sáng.
Mặc dù đến nhà Mtao Mxây để gây chiến vì Đăm Săn có lý do khiêu chiến, nhưng chàng không vội ra tay. Phải bình tĩnh đến mức nào đó để không làm cho cơn giận bùng lên, Đăm Săn mới nhường cho Mtao Mxây múa khiên trước. Chỉ thực sự gai mắt khi chứng kiến lời nói của đối thủ, khoác lác huênh hoang mà thực tài kém cỏi, Đăm Săn mới thực sự rung khiên.
Tài nghệ phi thường của Đăm Săn được chứng thực trong cuộc múa khiên hùng tráng. Có đến hai dụng ý nghệ thuật của tác phẩm sử thi mà người kể khan đã dùng đắc địa. Thứ nhất là biện pháp đối lập hai chiều (giữa cảnh Mtao Mxây múa gươm trước với cái cách múa khiên đầy tốc độ của Đăm Săn “Một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốc tới nữa, chàng vượt một đồi lồ ô” là những đường gươm chậm chạp, nặng nề của Mtao Mxây: “bước cao bước thấp chạy hết bãi tây sang bãi đông”. Thứ hai là vai trò của người dẫn truyện. Trong đợt múa khiên tiếp theo, đối xứng nghệ thuật đã không còn. Thay vào đó là lời thuyết minh của người chứng kiến. Trong lần múa khiên này, võ nghệ của Đăm Săn không còn là tốc độ mà chuyển sang cường độ. Nếu tốc độ múa khiên của chàng cứ thấy “vun vút” (“vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây”) thì cường độ múa khiên của chàng lại là một trận bão lớn. Chỉ còn lại một hào hứng, một tung hô đầy kinh ngạc: “Chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa dưới thấp, gió như lốc. Chòi lẫm đổ lãn lóc. Cầy cối chết rụi. Khi chàng múa dưới thấp, vang lên tiếng đĩa khiên đồng. Khi chàng múa trên cao, vang lên tiếng đĩa khiên kênh. Khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung…”. Thủ pháp cường điệu khoa trương thật thích hợp trong văn cảnh này. Nó làm đậm lên một sức mạnh, một năng lực phi phàm chỉ những người xuất chúng như Đăm Săn mới có. Như thế là kịch tính đã phát triển tới tốc độ, tính hàm súc, lắng đọng cũng đạt đến độ cao.
Nhưng sự cường điệu khoa trương không bao giờ là vô hạn. Sức mạnh của Đăm Săn quả là có giới hạn. Nó biết dừng lại ở sự có lý ngay cả trong tư duy có yếu tố thần thoại của tác phẩm sử thi. Trong trường hợp ấy cần có thần linh trợ giúp. Ông trời, ông bụt hiện lên đúng lúc từ những giấc mơ. Trời, bụt giúp người hoạn nạn. Trời, bụt cũng giúp cho những khát vọng lớn của con người. Nhân vật ông trời ở đây đứng về phía Đăm Săn, phát hiện cho chàng cái “gót chân A-sin” của địch thủ. Chỉ tới lúc đó, Mtao Mxây mới không còn một thành lũy nào ẩn nấp. Khi cái áo giáp của Mtao Mxây rơi xuống, hắn mới hiện nguyên hình là một kẻ yếu đuối biết bao! Hình ảnh cái chuồng lợn, chuồng trâu bẩn thỉu đã xuất hiện ở đầu đoạn văn, nay được lặp lại với một ý vị mỉa mai trên một tinh thần khác. Ở lần thứ nhất nó liên quan đến nhân cách của Mtao Mxây thì lần thứ hai nó lại liên quan đến sức mạnh của một kẻ không còn gì đáng sợ nữa.
Nếu cuộc chiến giữa Đăm Săn với Mtao Mxây khắc họa một phương diện của Đăm Săn, phương diện con người cá nhân thì cảnh trở về và lễ ăn mừng chiến thắng lại mở ra một góc khác của con người anh hùng đó: con người cộng đồng, con người xã hội.
Vốn là một tù trưởng giàu mạnh, Đám Săn có trách nhiệm với bộ tộc đã đành. Chính vì danh dự của Đăm Săn bị xúc phạm (Mtao Mxây cướp vợ của Đăm Săn) cũng là danh dự của bộ tộc bị xúc phạm mà chàng đã dấy binh. Chiến thắng kẻ thù rồi, danh dự được bảo vệ rồi, trách nhiệm của Đăm Săn tăng lên gấp đôi. Có trách nhiệm với tôi tớ, dân làng của mình, chàng có nghĩa vụ che chở cho tôi tớ, dân làng của Mtao Mxây nữa. Sự mở rộng địa bàn ở đây không có nghĩa thôn tính một cách áp đặt, giản đơn. Nó dựa trên nguyên tắc tự nguyện và người thủ lĩnh mới không hề có định kiến mà ngược lại hết sức bình đẳng, chân tình. Không một hiệu lệnh nào thúc ép, không một lời nói nào cao giọng răn đe. Đăm Săn đã gõ cửa từng nhà. Biện pháp nghệ thuật ở đây là hình thức tiếng vang. Một câu nói của Đăm Săn truyền đi, một câu trả lời vọng lại để rồi một câu hỏi từ đó lại lan xa từ nhà này qua nhà khác. Câu hỏi thứ nhất (của Đăm Săn): “Ơ nghìn chim sẻ, ơ vạn chim ngói! ơ tất cả tôi tớ bằng này! Các ngươi có đi với ta không?”. Câu trả lời thứ nhất (của dân làng): “Không đi sao được! Tù trưởng chúng tôi đã chết, lúa chúng tôi đã mục, chúng tôi còn ở với ai?”... Câu hỏi thứ hai (của Đăm Săn): “Ơ tất cả dân làng này, các ngươi có đi với ta không? Tù trưởng các ngươi đã chết, lúa các ngươi đã mục. Ai đi chăn ngựa hãy đi bắt ngựa! Ai giữ voi hãy đi bắt voi! Ai giữ trâu hãy đi lùa trâu về!”. Cứ như thế một cuộc chạy tiếp diễn ra tạo nên sự kết tinh, hòa đồng gắn bó hai bộ tộc của Đăm Săn và Mtao Mxây làm một.
Lễ mừng chiến thắng do đó không chỉ đóng khung trong nghĩa hẹp là trừng trị một kẻ ác (Mtao Mxây) đã thành công. Nó mang một ý nghĩa kép: vừa chiến thắng kẻ thù vừa nhân lên gấp đôi sức mạnh của bộ tộc. Bởi vậy, âm hưởng của bản anh hùng ca mới ngát trời hào hứng: rộn rã âm thanh của các loại chiêng có tiếng đồng tiếng bạc cùng với vòng nhạc rung lên làm cho tất cả mọi giống loài phải im tiếng để nhường chỗ cho một sự kiện trang nghiêm chưa từng có bao giờ. Và rồi sau cái phút nín lặng âm thanh ấy, một bản hòa ca còn hùng tráng hơn bởi có sự tham gia của “Lươn trong hang, giun trong bùn, rắn hổ, rắn mang đều chui lên nằm trên cao sưởi nắng”. Ếch nhái cũng hoan hỷ, vui mừng, cùng kỳ nhông ngoài bãi “kêu rên inh ỏi suốt ngày đêm”. Không gian cứ mở rộng ra đến cùng trời cuối đất. Không gian của niềm vui và không gian của danh tiếng Đăm Săn: “Nhà Đăm Săn đông nghịt khách... Các khách tù trưởng đều từ phương xa đến”. Lại nữa: “Danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi, đông tây đâu đâu cũng nghe danh tiếng Đăm Săn”.
Trong bối cảnh nhộn nhịp tưng bừng ấy, hình tượng Đăm Săn hiện lên như một vị thần: oai phong về ngoại hình và đầy sức sống tiền tàng nội lực. Lúc Đăm Săn nằm trên võng nghỉ ngơi “Tóc thả trên sàn, hứng tóc chàng ở dưới đất là một cái nong hoa”. Còn khi xuất hiện trước đám đông thì rực rỡ với “Ngực quấn chéo một tấm mên chiến, mình khoác một tấm áo chiến, tai đeo nụ, sát bên mình nghênh ngang đủ giáo gươm, đôi mắt long lanh như mắt chim ghếch ăn hoa tre”. Đăm Săn, trong con mắt của tôi tớ, dân làng, khách khứa là một sức mạnh vô địch, “một trang tù trưởng mới giàu lên, đang tràn đầy sức trai, tiếng tăm lừng lẫy”.
Về nghệ thuật kể chuyện trong đoạn văn có những đặc điểm nổi bật như kể chuyện kết hợp với miêu tả tạo nên hứng thú của cảm giác liền mạch nhưng lại có điểm dừng, vừa bao quát vừa đi sâu vào từng chi tiết. Ở đây còn một sự kết hợp thứ hai giữa câu chuyện được kể và người kể nhằm cá thể hóa vai trò chủ quan vừa tạo không khí đang diễn ra vừa gây được sự đồng cảm của những người nghe trong hình thức diễn xướng. Riêng ngôn ngữ sử thi thì đoạn văn là một ví dụ điển hình. Ngôn ngữ ấy vừa giàu chất hội họa (thông qua hình ảnh) vừa giàu chất âm nhạc (thông qua nhịp điệu). Hình ảnh thì có khi là tả thực, có khi là phóng đại, cường điệu, khoa trương. Riêng về âm nhạc thì tuy đoạn văn được kể dưới hình thức văn xuôi nhưng rất gần với thơ ở nhịp điệu, tiết tấu cân xứng, hài hòa, du dương trầm bổng. Để chứng minh những điều nhận định trên đây không khó. Có điều chắc chắn là với cách kể ấy, với ngôn ngữ ấy, ta được lắng nghe một thứ phối hợp của nhiều thể loại, một thứ hòa thanh của nhiều nhạc cụ, làm thức dậy nhiều giác quan. Sức hấp dẫn của nó là không thể nào cưỡng nổi. Đó là dấu hiệu của một tác phẩm sử thi đạt tới đỉnh cao trong sự sáng tạo tuyệt vời.
Mẫu 2
Lời giải chi tiết:
“Đăm Săn” là sử thi anh hùng nổi tiếng nhất của dân tộc Ê-đê nói riêng và của Việt Nam nói chung. Tác phẩm cho thấy vẻ đẹp ngoại hình và sức mạnh phi thường của người anh hùng Đăm Săn, không chỉ vậy người anh hùng Đăm Săn còn mang trong mình nhiều phẩm chất cao quý, lập nhiều chiến công lừng lẫy. Tất cả vẻ đẹp đó đã được tái hiện một cách đầy đủ trong đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”.
Khi Đăm Săn cùng nô lệ của mình lên rẫy làm nương, Mtao Mxây - một tù trưởng tham lam, độc ác đã nhân cơ hội đó bắt cóc Hơ Nhị về làm vợ. Đăm Săn đến tận nhà chiến đấu đòi lại vợ, sau khi chiến thắng đã đưa nô lệ của Mtao Mxây về hợp nhất với bộ tộc của mình để trở nên hùng mạnh hơn. Đoạn trích đã thể hiện được vẻ đẹp phẩm chất anh hùng của Đăm Săn và sự hèn nhát, thất bại thảm hại của Mtao Mxây.
Trước và trong trận chiến đã bộc lộ đầy đủ vẻ đẹp phẩm chất của Đăm Săn và sự hèn nhát, tự kiêu của Mtao Mxây. Vợ bị bắt, Đăm Săn ngay lập tức dẫn dân làng đến nhà của Mtao Mxây để khiêu chiến với hắn, giọng điệu của Đăm Săn hết sức khinh bỉ kẻ thù: “Ơ diêng! Ơ diêng! Xuống đây! Ta thách nhà ngươi đọ dao với ta đấy”. Gọi Mtao Mxây là “diêng” - người bạn kết nghĩa với hàm ý mỉa mai, bởi họ trước đây đã từng là bạn bè tốt nhưng Mtao Mxây tráo trở lại đến cướp vợ của bạn. Trước lời khiêu chiến của Đăm Săn, Mtao Mxây sợ hãi từ chối không dám xuống, dáng điệu hết sức rụt rè, đắn đo “ngươi không được đâm ta khi ta đang đi xuống đó, nghe”. Trái ngược với thái độ rụt rè của Mtao Mxây, Đăm Săn khẳng khái khẳng định: “Sao ta lại đâm ngươi khi ngươi đang xuống nhỉ? Sao ta lại đâm ngươi khi ngươi đang đi nhỉ?” Kèm theo thái độ khinh bỉ: “Ngươi xem, đến con lợn nái của nhà ngươi dưới đất ta cũng không thèm đâm nữa là. Ngươi xem đến con trâu nhà ngươi trong chuồng ta cũng không thèm đâm nữa là”. Chỉ qua những lời nói, cử chỉ ấy ta cũng thấy hai tính cách hoàn toàn trái ngược nhau, nếu như Đăm Săn chủ động, dũng cảm đối mặt với kẻ thù thì Mtao Mxây lại bị động, hèn nhát, sợ hãi không đáng mặt làm anh hùng, làm tù trưởng của mọi người.
Tính cách, phẩm chất của hai nhân vật càng được bộc lộ rõ hơn trong trận chiến. Với tinh thần thượng võ, Đăm Săn nhường cho kẻ thù quyền chủ động tấn công. Trái với dáng điệu Mtao Mxây “dữ tợn như một vị thần”, lời nói huênh hoang: “Ta là tướng quen đánh trăm trận, quen giày xéo đất đai thiên hạ”, thực tế hắn lại chạy bước thấp bước cao, hết sang bãi Đông lại bãi Tây, vung dao chém yếu ớt nên chỉ trúng vào chão cột trâu. Còn Đăm Săn trước những hành động đó của kẻ địch chỉ đứng im thể hiện thái độ khinh bỉ. Khi chàng múa khiên đã thể hiện tất cả vẻ đẹp dũng mãnh, oai hùng của mình: “Một lần xốc tới chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốc tới nữa chàng vượt một đồi lồ ô. Chàng chạy vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây”. Hiệp đấu thứ ba đã quyết định thắng thua của cả hai nhân vật. Trong thế bí bách, Mtao Mxây yêu cầu nàng Hơ Nhị ném cho miếng trầu nhưng vì kém cỏi nên hắn không bắt trúng. Còn chàng Đăm Săn đã bắt trúng miếng trầu, khiến sức mạnh tăng lên gấp bội và chàng đã giành chiến thắng, mang được người vợ yêu quý trở về.
Đăm Săn trở về trong chiến thắng vang dội. Trước khi cùng dân làng trở về, chàng đã có những hành động, ứng xử hết sức đẹp đẽ: kêu gọi tôi tớ của Mtao Mxây đi theo mình để xây dựng một cộng đồng lớn, giàu mạnh. Lời kêu gọi ấy vô cùng tha thiết, hướng đến từng gia đình nhỏ để mong nhận được sự đồng thuận, ủng hộ của họ. Không chỉ vậy, lời kêu gọi ấy còn rất thấu tình, đạt lý: “Ơ tất cả dân làng này, các ngươi có đi với ta không? Tù trưởng các ngươi đã chết, lúa các ngươi đã mục. Ai chăn ngựa, hãy đi bắt ngựa. Ai giữ voi, hãy đi bắt voi. Ai giữ trâu, hãy đi lùa trâu về”. Bởi vậy, lời kêu gọi đó đã nhận được sự đồng thuận của tất cả dân làng, họ đều có chung một mục đích xây dựng một cộng đồng to lớn, hùng mạnh để tất cả mọi người được hưởng ấm no, hạnh phúc: “Không đi sao được, làng chúng tôi phía bắc đã mọc cỏ gấu, phía nam đã mọc cỏ hoang, người giàu cầm đầu chúng tôi nay đã không còn nữa”. Họ về cùng Đăm Săn: “Đoàn người đông như bầy cà tong, đặc như bầy thiêu thân, ùn ùn như kiến, như mối. Tôi tớ mang của cải về nhiều như ong đi chuyển nước, như vò vẽ đi chuyển hoa, như bầy trai gái đi giếng làng cõng nước”. Và khi trở về họ mở tiệc ăn mừng vô cùng lớn, kéo dài suốt mùa khô, tù trưởng các nơi tụ hội về chật ních người. Hình ảnh đó cho thấy sự lớn mạnh của buôn làng Đăm Săn, đã giàu có nay lại càng giàu có hơn. Tiếng tăm, vẻ đẹp phẩm chất và sức mạnh của chàng lại càng vang xa, khiến ai cũng ngưỡng mộ.
Bên cạnh hai nhân vật chính là Đăm Săn và Mtao Mxây cũng cần kể đến một số nhân vật khác như: Hơ Nhị và ông Trời, đây là hai nhân vật trợ thủ, xuất hiện để giúp Đăm Săn chiến thắng. Không chỉ vậy, họ còn giúp tôn vinh Đăm Săn, khẳng định tính chất chính nghĩa của nhân vật này. Ngoài ra cũng cần kể đến nhân vật quần chúng, đám đông, họ là những người hậu thuẫn cho Đăm Săn hoặc bị chàng thuyết phục bằng tài năng, phẩm chất. Tất cả bọn họ đều có một mục đích chung tôn vinh vẻ đẹp sức mạnh và phẩm chất của Đăm Săn.
Tác phẩm không chỉ hấp dẫn ở nội dung mà còn ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Mỗi nhân vật đề có vai trò khác nhau với diễn biến sử thi khiến cho sử thi liên tục phát triển. Các nhân vật có một tính cách riêng. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ đặc sắc, linh hoạt; ngôn ngữ người kể chuyện có xen lời đối thoại khiến cho tác phẩm thêm sinh động, hấp dẫn. Nghệ thuật miêu tả sinh động, kết hợp linh hoạt các thủ pháp so sánh, phóng đại.
Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ đặc sắc, đoạn trích đã làm nổi bật vẻ đẹp anh hùng, dũng cảm của Đăm Săn. Vẻ đẹp của Đăm Săn là vẻ đẹp kết tinh của cả cộng đồng, nhân vật hội tụ sức mạnh của nhân dân, đó là vẻ đẹp, sức mạnh của lòng tự trọng, danh dự, gắn bó với hạnh phúc gia đình và luôn hướng đến mục đích cao cả xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho cộng đồng.
Mẫu 3
Lời giải chi tiết:
Đã bao đời nay những giọng kể khan trầm hùng vẫn cứ vang lên bên bếp lửa của nhà Rông các buôn làng Tây Nguyên, lưu truyền những truyền thuyết anh hùng Đam San, Xinh Nhã… Hình như nó đã tạo nên sự mạnh mẽ, gan góc, liều lĩnh, kiêu hùng ở mỗi người trai Tây Nguyên. Một trong những niềm tự hào của đồng bào Ê-đê chính là sử thi Tây Nguyên. Đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” đã thể hiện rõ vẻ đẹp của thiên sử thi này.
Về sử thi, có hai loại sử thi. Đó là sử thi thần thoại và sử thi anh hùng. Sử thi thần thoại kể về sự hình thành thế giới, sự ra đời của muôn loài, sự hình thành các dân tộc và các vùng cư trú cổ đại của họ, sự xuất hiện nền văn minh buổi đầu. Nhân vật thường là các thần thánh, gần với thần thoại. Sử thi anh hùng Kể về cuộc đời và sự nghiệp của các tù trưởng anh hùng. Nhân vật là con người cụ thể, các anh hùng có sức mạnh, có tài năng và vẻ đẹp phi thường tiêu biểu cho sức mạnh thể chất và tinh thần, ý chí của cả cộng đồng. Đăm Săn thuộc kiểu sử thi anh hùng.
Sử thi Đăm Săn của dân tộc Ê-đê kể về những chiến công của người anh hùng Đăm Săn, một tù trưởng hùng mạnh. Người anh hùng dám chống lại cả tục nối dây (chuê nuê), chặt cả cây thần Smuk. Chiến thắng các tù trưởng thù địch, làm cho buôn làng ngày càng giàu mạnh. Cuối cùng chàng chết trong rừng Sáp đen vì đi cầu hôn nữ thần Mặt trời, thể hiện khát vọng phóng túng của một tù trưởng hùng mạnh. Đăm Săn Chết nhưng con cháu của chàng tiếp tục con đường của cậu mình.
Thông qua nhân vật Đăm Săn, tác phẩm phản ánh những khát vọng to lớn của người Ê-đê trong buổi đầu của lịch sử bộ tộc. Khát vọng chinh phục khám phá tự nhiên huyền bí, họ đã bắt đầu chặt cây, đốt nương, biết xuống sông bắt cá, khát vọng có sức mạnh phi thường để chiến thắng kẻ thù, khát vọng tự do (thoát khỏi tục chuê nuê) và cuối cùng là khát vọng giàu có và hùng mạnh. Tác phẩm còn dựng lên một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống, con người của đồng bào Tây Nguyên, về thiên nhiên hùng vĩ nơi đây. Đây là một cuốn sĩ thư hay với ngôn ngữ sử thi có nhiều hình ảnh so sánh, phóng đại. Tác giả dân gian đã xây dựng thành công hình tượng người anh hùng Đăm Săn, đại diện cho cộng đồng Ê đê về vẻ đẹp, sức mạnh, lòng dũng cảm. Kết cấu trùng điệp. Mỗi khúc ca là một chiến công của người anh hùng Đăm Săn. Cốt truyện mang màu sắc thần thoại.
Đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây nằm ở phần giữa tác phẩm, ngay sau sự kiện Mtao Mxây lợi dụng lúc Đăm Săn đi vắng, bắt người vợ xinh đẹp Hơ Nhị của chàng. Đoạn trích được chia làm hai cảnh: Cảnh đọ sức giữa Đăm Săn và Mtao Mxây, cảnh ăn mừng chiến thắng.
Toàn bộ diễn biến cuộc đọ sức giữa Đăm Săn và Mtao Mxây được miêu tả khá giàu kịch tích qua ba hiệp. Hiệp đấu thứ nhất diễn ra ở nhà Mtao Mxây. Với nghệ thuật so sánh người kể chuyện đã miêu tả và làm nổi bật được thật cụ thể quang cảnh giàu có của nhà Mtao Mxây: “Nhà Mtao Mxây đầu sàn hiên… không sợ chật”. Đăm Săn đang phải đối diện với kẻ thù giàu mạnh. Nhưng với thái độ dũng cảm, chẳng e sợ, ngại ngùng. Sự hùng mạnh của nhà Mtao Mxây chẳng có tác động gì tới chàng cả. Chàng đến tận nhà của Mtao Mxây: “Ơ diêng, xuống đây! Ta thách nhà người đọ dao với ta đấy”. Trước thái độ ấy của Đăm Săn, Mtao Mxây cũng ngạo nghễ, khiêu khích Đăm Săn: “Ta không xuống đâu, diêng ơi. Tay ta đang còn bận ôm vợ hai chúng ta ở trên nhà này cơ mà”. Thái độ ấy như lửa dội thêm dầu, nó càng làm cho Đăm Săn trở nên tức giận, khiêu chiến quyết liệt hơn “ Xuống, diêng ! Xuống, diêng ! Ngươi không xuống ư? Ta sẽ lấy cái sàn hiên của nhà ngươi ta bổ đôi, ta sẽ lấy cái cầu thang của nhà ngươi ta chẻ ra kéo lửa, ta hun cái nhà của nhà người cho mà xem”. Giọng điệu thách thức của Đăm Săn bừng bừng hơi nóng của sự giận dữ, chứa đựng sức mạnh của người có tính gan dạ, quả quyết, chàng đe dọa phá tan cái hiên nhà, cái cầu thang và ngôi nhà. Trước thái độ ấy của Đăm Săn, Mtao Mxây run sợ: “Người không được đâm ta… Ta sợ ngươi đâm ta khi ta đang xuống…”. Đăm Săn thì đàng hoàng khẳng định “ Sao ta lại phải đâm ngươi… Đến con lợn… thèm đâm”. Cảnh khiêu chiến đã cho ta nhận thấy hai tính cách đối lập nhau. Nếu Mtao Mxây tỏ ra kém cỏi, hèn nhát thì Đăm Săn đàng hoàng. Lời thoại còn cho ta thấy rõ thái độ kể chuyện của tác giả dân gian đối với mỗi nhân vật. Ở đây, chân dung Mtao Mxây được miêu tả trực diện “Bà con xem, khiên hắn… dày nút…”, dáng điệu cử chỉ lại rất tần ngần “Mỗi bước đi mỗi bước đắn đo”. Tác giả dân gian đã sử dụng triệt để hiệu quả của thủ pháp đối lập làm nổi bật được bản chất ở hai con người.
Lúc vào trận, cả hai bên đều múa khiên nhưng thật đối nghịch. Mtao Mxây múa khiên trước nhưng hắn lại tỏ ra kém cỏi “Khiên hắn kêu… hắn múa một mình. Hắn bước cao bước thấp chạy hết bãi tây sang bãi đông…”, “Hắn vung dao… cái chão cột trâu”. Trong khi đó Đăm Săn thì rung khiên múa “Một lần xốc tới… vun vút qua phía tây”. Lời lẽ của Mtao Mxây khoe khoang, Đăm Săn không kể tài mà chỉ thể hiện bằng hành động. Nhưng mỗi lời chàng nói thể hiện sự khinh bỉ kẻ thù. Kết thúc hiệp đấu thứ nhất, Đăm Săn vẫn tạm thời chưa đánh được kẻ thù.
Cuộc đọ sức càng quyết liệt từ khi Hơ Nhị ném miếng trầu, Đăm Săn dành được sức khoẻ tăng lên gấp bội, chàng tiếp tục hiệp đấu thứ hai. Ở hiệp này Đăm Săn múa khiên trước, hành động của chàng nhanh thoăn thoắt và dũng mãnh. Người kể chuyện sử dụng những phóng đại kết hợp với so sánh bay bổng “chàng múa… bật rễ tung bay”. Với hình ảnh này, tác giả đã ngợi ca, thần thánh hoá người anh hùng Đăm Săn sánh ngang với sức mạnh gió bão thiên nhiên. Người kể chuyện có thái độ tôn vinh người anh hùng Đăm Săn. Ở hiệp này, hai lần đâm trúng Mtao Mxây nhưng cả hai lần đều đâm không thủng. Đăm Săn thấm mệt. Cuộc chiến vẫn tiếp diễn căng thẳng với hiệp đấu thứ ba.
Chàng Đăm Săn nằm mơ thấy ông Trời. Trời chỉ cho cách đánh thắng Mtao Mxây bằng cách ném cái chày mòn vào vành tai kẻ địch. Chàng nghe vậy bừng tỉnh chộp cái chày mòn ném vào vành tai kẻ địch. Ngay lập tức “cái giáp của Mtao Mxây rơi xuống… chuồng trâu” rồi nhanh chóng chàng đã đẩy Mtao Mxây đến chỗ phải cầu xin và điều đình“. Kết thúc hiệp đấu thứ ba, Đăm Săn cắt đầu Mtao Mxây bên ngoài đường. Chàng trở thành người thắng trận. Như vậy, chúng ta thấy chiến thắng này của Đăm Săn có vai trò trợ giúp đặc biệt của nhân vật ông Trời. Nhân vật ông Trời là một kiểu nhân vật phù trợ thường thấy trong văn học dân gian giống như ông Tiên, Bụt ở truyện cổ tích. Nhân vật này thường xuất hiện vào lúc con người bế tắc. Đó chỉ là phù trợ còn quyết định chiến thắng phải là Đăm Săn.
Chiến thắng của Đăm Săn thể hiện sự thống nhất cao độ giữa quyền lợi, khát vọng cá nhân anh hùng với quyền lợi khát vọng của cả cộng đồng. Thể hiện lòng yêu mến của tập thể cộng đồng đối với cá nhân. Qua đó sử thi muốn nói đến ý chí thống nhất của toàn thể cộng động Ê-đê. Một biểu hiện quan trọng của ý thức dân tộc.
Đòi lại vợ là cái cớ làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các bộ tộc dẫn đến chiến tranh để mở rộng bờ cõi. Ý nghĩa của sử thi là ở đó. Vì vậy thắng hay bại của người tù trưởng sẽ có ý nghĩa quyết định tất cả. Cho nên lời nói của dân làng phía Mtao Mxây đều tình nguyện đi theo Đăm Săn. Cho nên trong sử thi không nói nhiều về chết chóc mà chọn cảnh ăn mừng chiến thắng.
Tiệc ăn mừng chiến thắng được mở ra trong bối cảnh đoàn người cùng chiến lợi phẩm tấp nập vào buôn làng. Cảnh này được diễn tả bằng ngôn ngữ của người kể chuyện, trùng điệp những hình ảnh so sánh : “Đông… kiến mối” mang theo bao nhiêu của cái như “ong đi chuyển nước… cõng nước”. Đây đều là những chùm hình ảnh so sánh mang tính cụ thể gần gũi với đời sống. Trong bối cảnh đó Đăm Săn hiện lên hòa cùng với tôi tớ ăn mừng chiến thắng. Hướng tới cộng đồng, Đăm Săn tuyên bố chiến thắng với lũ làng, chàng ra lệnh cho mọi người hãy dâng rượu, bắt trâu dâng lên thần linh : “rượu năm ché… nhà giàu về”. Chàng kêu gọi mọi người đến đánh trống, chiêng ăn mừng chiến thắng: “ Hỡi anh em… treo đèn trong nhà”. “ Hãy đánh lên… phải ngừng kêu”.
Hình ảnh Đăm Săn được miêu tả bằng cái nhìn ngưỡng mộ của nhân dân. Đó là vẻ đẹp và sức mạnh của người anh hùng, thể hiện sức mạnh của cả thị tộc, sự thống nhất và niềm tin của cả cộng đồng. Giữa quang cảnh ăn uống tấp nập, Đăm Săn nổi bật lên “ tóc dài chảy đầy nong hoa”, “uống không biết say, ăn không biết no, chuyện trò không biết chán”… “ Ngực quấn chéo một tấm mền chiến, ….tiếng tăm lừng lẫy”. Những hình ảnh từ cơ thể được phóng đại “Bắp chân to bằng cây xà ngang… ngang tàng từ trong bụng mẹ”. Ngôn ngữ mang âm hưởng ngợi ca, thể hiện ngưỡng mộ của dân gian với người anh hùng. Người anh hùng có vẻ đẹp lý tưởng, phẩm chất anh hùng dũng cảm, cao thượng được cả cộng đồng tôn kính, danh tiếng của Đăm Săn là danh tiếng của cả cộng đồng.
Nếu như miêu tả cảnh giao đấu ngôn ngữ sử thi chủ yếu là đối thoại, thì miêu tả cảnh ăn mừng chiến thắng lại chủ yếu dùng những trường đoạn, câu cảm thán, hình ảnh so sánh, phóng đại… làm nổi bật được sự sung sướng, vui vẻ, tưng bừng của cả cộng đồng.
Đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” đã mang đến cho người đọc, người nghe cái nhìn độc đáo về người anh hùng Đăm Săn, đó không chỉ là người anh hùng có những phẩm chất tuyệt vời mà còn là mẫu hình anh hùng lí tưởng của đồng bào Ê-đê, thể hiện được khát vọng về một người thủ lĩnh tài giỏi, mang đến sự phát triển cho toàn bộ lạc. Cuộc chiến đấu của Đăm Săn thực chất là sự lí giải về nguyên nhân của các chiến tranh bộ lạc cũng như nhu cầu tất yếu của việc hợp nhất các bộ lạc thành một dân tộc thống nhất.
Chương V. Động lượng
Chuyên đề 2. Sân khấu hóa tác phẩm văn học
Chương 2. Trái Đất
Chủ đề 1: Nền kinh tế và các chủ thể của nền kinh tế
Chủ đề 8: Chọn nghề, chọn trường
Chuyên đề học tập Văn - Cánh diều Lớp 10
Đề thi, đề kiểm tra Ngữ văn - Kết nối tri thức lớp 10
Đề thi, đề kiểm tra Ngữ văn - Cánh diều lớp 10
Văn mẫu - Cánh diều Lớp 10
Văn mẫu - Kết nối tri thức
Đề thi, đề kiểm tra Ngữ văn - Chân trời sáng tạo lớp 10
Bài giảng ôn luyện kiến thức môn Ngữ Văn lớp 10
Chuyên đề học tập Văn - Chân trời sáng tạo Lớp 10
Chuyên đề học tập Văn - Kết nối tri thức Lớp 10
Lý thuyết Văn Lớp 10
SBT Văn - Cánh diều Lớp 10
SBT Văn - Chân trời sáng tạo Lớp 10
SBT Văn - Kết nối tri thức Lớp 10
Soạn văn - Cánh Diều - chi tiết Lớp 10
Soạn văn - Cánh Diều - siêu ngắn Lớp 10
Soạn văn - Chân trời sáng tạo - chi tiết Lớp 10
Soạn văn - Chân trời sáng tạo - siêu ngắn Lớp 10
Soạn văn - Kết nối tri thức - chi tiết Lớp 10
Soạn văn - Kết nối tri thức - siêu ngắn Lớp 10
Tác giả tác phẩm Lớp 10