Ngay từ đầu Công nguyên cho đến suốt 1000 năm Bắc thuộc sau đó, các dân tộc trên đất nước Việt Nam đã sống trong quá trình cộng cư với nhau và cả với người Hán từ phương Bắc đến. Trải qua quá trình cộng cư này cùng với sự tiếp xúc với chữ Hán và văn hóa Hán, các dân tộc Việt Nam đã dần dần chủ động sử dụng chữ Hán trước hết là trong hành chính và trong giáo dục, rồi cả trong sáng tác văn học, hình thành một nền văn học chữ Hán của chính dân tộc mình. Và từ khi thoát li khỏi sự đô hộ trực tiếp của phong kiến phương Bắc, thì bên cạnh chữ Hán vẫn tiếp tục được coi trọng, người dân bản địa Việt Nam còn sáng tạo ra chữ viết cho bản ngữ của mình. Đó là các hệ thống chữ viết ô vuông theo hình mẫu chữ Hán, được gọi là chữ Nôm. Với chữ Nôm Việt, ở Việt Nam đã hình thành nên một nền văn chương chữ Nôm (bên cạnh văn chương chữ Hán). Và chính trong lĩnh vực sáng tạo văn học, chữ Nôm gắn liền với ngôn ngữ dân tộc đã tạo nên những tác phẩm có giá trị, chiếm những vị trí cao nhất trong văn học cổ điển Việt Nam.
Nguồn gốc chữ Nôm
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu chữ Nôm đã đưa ra nhiều giả thuyết. Hầu hết các giả thuyết đều được hình thành trên cơ sở các hệ tiêu chí khác nhau với những cứ liệu về chứng tích, ngôn ngữ, văn tự khác nhau, ấy là chưa kể đến các yếu tố văn hóa xã hội và lịch sử chi phối. Từ cái nhìn tổng quan, các các giả thuyết được xây dựng trên hai hệ tiêu chí. Thứ nhất là yếu tố ngôn ngữ – văn tự (cụ thể là âm Hán Việt, văn tự,…), có thể coi đây là giả thuyết được xây dựng theo cứ liệu “nội chứng”. Ngược lại với nó là giả thuyết được xây dựng theo những cứ liệu “ngoại chứng” (gồm các tư liệu của lịch sử, văn hóa dân gian: truyền thuyết, huyền thoại…). Tuy nhiên, đây không phải là bài tổng thuật, mà chỉ tiến hành giới thiệu những thành tựu nghiên cứu mới nhất về loại văn tự này.
Với những kết quả nghiên cứu trong nhiều năm qua, đến giờ các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau rằng, chữ Nôm là sản phẩm được hình thành trong giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XII, sau khi người Việt tách khỏi sự cai trị của nhà Đường. Có ba tiêu chí sau đây. Đó là sự hình thành tiếng Việt, bên cạnh đó là hình thành cách đọc Hán Việt và việc tìm thấy văn bản chữ Nôm ghi tiếng Việt vào thế kỷ XII. Đây là ba cứ liệu quan trọng cho phép thời điểm xuất hiện của chữ Nôm. Cụ thể chúng tôi xin trình bày như sau.
Sự hình thành tiếng Việt- tiền đề của chữ Nôm Việt
Theo giới ngôn ngữ học Việt Nam hiện nay, Tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc nhóm Việt-Mường, tiểu chi Việt Chứt, nằm trong khối Việt Katu, thuộc khu vực phía đông của ngành Mon-Khmer, họ Nam Á. Tiếng Việt có lịch sử chỉ khoảng hơn 12 thế kỷ. Sự ra đời của tiếng Việt là hệ quả của những quá trình tiếp xúc và phân tách ngôn ngữ. Sự tiếp xúc với người Hán, tiếng Hán, văn hoá Hán đã xảy ra trước khi Triệu Đà xâm lược, nhưng để lại dấu ấn sâu đậm vẫn là sự tiếp xúc trực tiếp trong suốt 1000 năm Bắc thuộc. Ảnh hưởng của tiếng Hán, nền văn hoá Hán không tỏ ra đồng đều trên lãnh thổ bị chiếm đóng. Ảnh hưởng đó ở vùng phía bắc sâu đậm hơn ở vùng phía nam, ở vùng đồng bằng sâu đậm hơn ở vùng núi. Chính vì vậy, sự khác biệt vốn ngày càng rõ nét và cuối cùng đã phân hoá thành hai nhóm ngôn ngữ cách đây từ 2000 đến 2500 năm. Những kết quả nghiên cứu trên cho thấy, thời điểm ra đời của tiếng Việt là ngưỡng thời gian quan trọng nhất để tiến hành xác định thời gian hình thành của chữ Nôm. Nói cách khác, những giả thuyết coi chữ Nôm xuất hiện trước thế kỷ VIII-IX đều là không có cơ sở về mặt ngôn ngữ học và lịch sử dân tộc. Chúng tôi cho rằng, chữ Nôm cũng chưa thể ra đời song song đồng thời cùng với tiếng Việt mà cần phải có độ lùi sau đó một chút khi tiếng Việt đã thực sự tách khỏi tiếng Việt Mường và cách đọc Hán Việt đã khá ổn định. Chính vì thế, tiếp dưới đây, chúng tôi sẽ đề cập đến cách đọc Hán Việt với tư cách là một điều kiện quan trọng khác cho sự hình thành chữ Nôm.
Cách đọc Hán Việt với sự hình thành chữ Nôm
Chữ Nôm được cấu tạo với những chất liệu mượn từ chữ Hán đọc theo âm Hán Việt (AHV) được hình thành vào sau đời đời Đường trên cơ sở cách đọc chữ Hán của người bản địa tại Giao Châu, tạm gọi là tiếng Hán Giao Châu. Do đó, một số học giả đã coi đó là tiền đề cần thiết cho sự xuất hiện chữ Nôm. Vấn đề này Văn Hựu đã đề cập đến và Trần Kinh Hòa nhắc lại: “sự hình thành chữ Nôm tuy không nhất quyết là phải sau thế kỷ XIV, nhưng sự thật là nó cũng không thể có từ thời cổ đại, bởi những “bộ thủ” mà chữ Nôm mượn dùng đều thuộc về thành phẩn Khải thể của chữ Hán – là thời kỳ cách xa lối Lệ thể đã lâu”.
Đào Duy Anh là người tiếp tục hướng nghiên cứu này. Ông cho rằng chữ Nôm được đọc dựa trên chữ Hán đọc theo âm Hán - Việt: “Quá trình ổn định của âm Hán - Việt có thể bắt đầu ngay từ thời họ Khúc dấy nghiệp (905) mà tiếp diễn trong thời gian đầu của thời tự chủ. Nhưng âm Hán – Việt bắt đầu ổn định không có nghĩa là chữ Nôm đã xuất hiện ngay từ đấy… Do yêu cầu mới của xã hội từ sau cuộc giải phóng, đặc biệt dưới các triều Đinh Lê và đầu Lý, chữ Nôm đã xuất hiện”. Ông dẫn 24 chữ Nôm ghi tên làng trong tấm bia Báo Ân thiền tự bi ký ở chùa Tháp Miếu huyện Yên Lãng tỉnh Vĩnh Phú (1210) làm minh chứng.
Nói một cách khác thì cũng phải từ đầu thế kỷ XI trở đi thì cách đọc Hán Việt mới tách hẳn ra thành một lối đọc độc lập với cách đọc ở Trung Nguyên, và tồn tại độc lập với tư cách là một hệ thống đọc riêng biệt của người Việt”. Những kết quả nghiên cứu đã góp phần đi đến nhận định rằng, âm Hán Việt là một nguồn quan trọng nhất cho sự ra đời của chữ Nôm.
Về văn bản chữ Nôm sớm nhất ghi tiếng Việt tiền cổ thế kỷ XII
Chữ Nôm, cũng như chữ Hán và các hệ thống chữ vuông khác trong khu vực, không phải thuộc loại những văn tự do một người nào đó sáng tạo ra mà là một hệ thống văn tự được hình thành và hoàn thiện dần dần trong quá trình hành chức và sử dụng của cả cộng đồng, mà ở đây là cộng đồng người Việt. Muốn xác định một thời điểm được coi là đánh dấu sự khai sinh của chữ Nôm Việt, chúng ta phải căn cứ trên những cứ liệu cho thấy khả năng hành chức độc lập tối thiểu của chữ Nôm được xuất hiện lần đầu tiên trong văn bản nào. Những cứ liệu như thế không phải là những chữ lẻ tẻ xuất hiện trong các văn bản Hán văn mà phải là một văn bản tiếng Việt hoàn chỉnh đủ để ghi lại một thông tin trọn vẹn.
Có thể thấy, tác phẩm Phật thuyết có lẽ phải sáng tác trước đời Trần với độ lùi thời gian tối thiểu từ 2 hoặc 3 thế kỷ. Như thế, kết quả này phần nào phù hợp với giả thuyết của Gs Nguyễn Quang Hồng, rằng: Phật thuyết là tác phẩm đầu đời Lý. Nếu giả thuyết này có thể chấp nhận được thì có thể coi Phật thuyết là văn bản văn xuôi tiếng Việt sớm nhất hiện còn, và là một bản dịch sớm nhất trong lịch sử dịch thuật kinh sách tôn giáo sang tiếng Việt mà đến nay còn may mắn lưu giữ được. Và quan trọng nhất, đây là văn bản đánh dấu sự tồn tại của chữ Nôm với tư cách là một hệ thống văn tự hoàn chỉnh dùng để ghi tiếng Việt tiền cổ (thế kỷ X-XII).
Từ chữ Hán, người Việt sáng tạo ra chữ Nôm, được sử dụng và phát triển trong đời sống văn hóa của người Việt. Xét về mặt vị trí, thì chữ Hán được nhiều triều đại phong kiến Việt Nam coi trọng, được xem là văn tự chính thống của quốc gia. Còn chữ Nôm chủ yếu được phát triển trong sáng tác văn học, tuy nhiên cũng có những triều đại phong kiến Việt Nam coi trọng chữ Nôm, như triều Tây Sơn (1788 - 1802).
Chữ Nôm ra đời có ý nghĩa hết sức lớn lao, đánh dấu bước phát triển của nền văn hóa dân tộc, ý thức tự cường và khẳng định vai trò, địa vị của tiếng Việt. Như mọi người đều biết, tiếng Việt của chúng ta rất giàu hình ảnh, là tiếng nói của nhân dân, là lời văn trong sáng của các nhà ngoại giao và là ngôn ngữ cảm xúc văn học trong các sáng tác của các nhà thơ, nhà văn và là kho tàng ca dao trong sáng tác văn học dân gian. Tiếng Việt của chúng ta giàu tình cảm, nhiều màu sắc và âm điệu, phản ánh tâm hồn trong sáng và cốt cách vĩ đại của nhân dân Việt Nam trải hàng ngàn năm lịch sử.
Ý nghĩa
Chữ Nôm, như trên đã nói, nó có tầm quan trọng là vì dạng văn tự này chiếm một phần không nhỏ trong lịch sử Việt Nam. Nếu bỏ qua việc nghiên cứu văn tự này, bỏ qua việc nghiên cứu thấu đáo nền văn hiến được ghi lại bằng thứ văn tự này, thì ở mặt nào đó, việc nghiên cứu về lịch sử Việt Nam sẽ không đem lại kết quả trọn vẹn. Nói như vậy không phải là quá lời, bởi vì dạng văn tự này không ghi lại tiếng Trung Quốc – Hán văn, mà nó chính là phương thức duy nhất ghi lại tiếng Việt – ngôn ngữ của dân tộc.
Trước tiên, hãy xem xét tầm quan trọng của nó từ góc độ nghiên cứu lịch sử. Dạng văn tự này rất tự nhiên không sử dụng để ghi lại chính sử, nhưng các tác phẩm tự sự trường thiên lịch sử được ngâm và được ghi lại dưới dạng thơ bằng tiếng Việt có rất nhiều, nó tạo thành một thể đối lập với chính sử được biên soạn theo lệnh của nhà vua và viết bằng chữ Hán. Tuy có thể nói nó thiếu giá trị của một tư liệu lịch sử, nhưng nó thể hiện đầy đủ thế giới quan lịch sử của bản thân người Việt.
Nhưng không chỉ có vậy. Chúng ta không nên quên rằng từng một thời gian dài có rất nhiều tác phẩm ghi lại bằng chữ Nôm như chiếu sắc, công văn, thư từ thông tin thương nghiệp… Nếu xem xét một sự thật là hồi đầu thế kỷ này, Hải ngoại huyết thư của Phan Bội Châu (1867-1940) người kêu gọi đồng bào chống Pháp mở đầu cho phong trào Đông du của hội Duy Tân, được dịch ra tiếng Việt dưới dạng thơ lục bát và ghi lại bằng chữ Nôm có xen chữ Quốc ngữ, đã làm rung động trái tim của thanh niên, thì ta hoàn toàn có thể thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa thứ văn tự này và tiếng Việt Nam với lịch sử dân tộc Việt Nam.
Mặc dù không còn được sử dụng phổ biến như trước, chữ Nôm vẫn là một phần quan trọng trong lịch sử và văn hóa Việt Nam. Việc nghiên cứu và bảo tồn chữ Nôm có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.