12/04/2024
12/04/2024
12/04/2024
Nền văn học Việt Nam được tạo nên bởi nhiều tài năng lớn. Trong số đó Nguyễn Du luôn xứng đáng là đại diện xuất sắc lỗi lạc nhất cho văn học dân tộc ở mọi thời đại.
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê gốc ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh nhưng được sinh ra tại Thăng Long ngày 25 tháng 11 năm Ất Dậu (tức ngày 3 tháng 11 năm 1765). Xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, từng có nhiều người làm quan và nhiều người sáng tác văn học, cha là Nguyễn Nghiễm, từng là tể tướng triều Lê, mẹ là Trần Thị Tần, vợ thứ ba của cha, xuất thân từ một gia đình bình dân ở Bắc Ninh, vốn rất giỏi hát xướng, Nguyễn Du sớm kế thừa được những truyền thống tốt đẹp của gia đình.
Cuộc đời của nhà thơ có nhiều biến đổi thăng trầm. Sau những năm tháng ấu thơ êm đềm và hạnh phúc, đến năm 10 tuổi tang thương bắt đầu ập đến: cha mất, tiếp theo hai năm sau mẹ cũng qua đời. Nguyễn Du phải đến sống nhờ nhà người anh cả cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi hương đậu tam trường, rồi làm một chức quan võ ở Thái Nguyên. Năm 1789 nhà Lê sụp đổ, Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình, rồi tiếp đó về sống ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Đó là quãng đời "mười năm gió bụi" vô cùng long đong khổ cực của nhà thơ.
Năm 1802 nhà Nguyễn được thiết lập, Nguyễn Du bất đắc dĩ từ chối không được phải miễn cưỡng ra làm quan. Ông từng làm tri huyện, tri phủ Thường Tín, cai bạ Quảng Bình. Tiếp đó, năm 1813 ông được thăng chức học sĩ điện Cần Chánh và được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Sau khi về nước ông được thăng làm Tham tri bộ Lễ. Năm 1820 Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc lần nữa nhưng chưa kịp đi thì ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn ông mất đột ngột trong một trận dịch lớn.
Trong cuộc đời nhiều sóng gió của mình Nguyễn Du đã để lại một sự nghiệp văn học vô giá: đồ sộ về số lượng, sâu sắc về nội dung, xuất sắc trong nghệ thuật thể hiện. Nguyễn Du sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Thơ chữ Hán có ba tập: Thanh Hiên thi tập, được làm lúc nhà thơ đang sống ở quê vợ Thái Bình và quê nhà Nghi Xuân; Nam trung tạp ngâm, viết trong thời gian Nguyễn Du làm quan ở Quảng Bình; Bắc hành tạp lục là tập thơ chữ Hán xuất sắc nhất, tập hợp những sáng tác ra đời trong lúc Nguyễn Du đi sứ ở Trung Quốc.
Trong những tập thơ này có nhiều bài thơ rất đặc sắc: Độc Tiểu Thanh kí , sở kiến hành, Long Thành cầm giả ca, Thái Bình mại ca giả. về thơ chữ Nôm, Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều và một tác phẩm cũng rất nổi tiếng: "Văn tế thập loại chúng sinh”.
Những sáng tác của Nguyễn Du trước hết cho thấy khả năng bao quát hiện thực và một cảm quan nhạy bén sắc sảo trước những vấn đề lớn của con người, của thời đại. Hiện thực cuộc sống với bao điều nhức nhối đã được Nguyễn Du ghi lại một cách trung thực và xúc động. Trên cái nền của sự phản ánh đó người đọc cũng thấy được ý thức phản kháng xã hội và đặc biệt là ý thức khẳng định, vun đắp cho cuộc sống hạnh phúc của con người của nhà thơ.
Trái tim của đại thi hào luôn thao thức cùng bao nỗi buồn vui của con người trên khắp chốn nhân gian: từ người ca nữ đất Long Thành nổi danh tài sắc thì giờ tủi hờn trong cảnh chiều tà xế bóng ( Long Thành cầm giá cá); từ nàng Kiều tài sắc hơn người mà một đời bất hạnh (Truyện Kiều); cho đến người hát rong (Thái Bình mại ca giả), những người ăn xin (Sở kiến hành), cả đến những cô hồn tội nghiệp đang vất vưởng trong khắp cõi trời đất (Văn chiêu hồn… tất cả đều hiện lên sống động trong bao niềm ưu tư trăn trở của Nguyễn Du. Hơn ai hết Nguyễn Du là một nhà hiện thực và nhân đạo vĩ đại của văn chương mọi thời đại bởi con mắt nhìn thấu cả sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt đến ngàn đời của ông
Không chỉ có vậy, sáng tác Nguyễn Du còn là minh chứng của một nghệ thuật đã đạt tới trình độ bậc thầy của một tài năng kiệt xuất. Ngôn ngữ văn chương, đặc biệt là tiếng Việt đạt đến đỉnh cao của sự nhuần nhuyễn, tinh tế, tự nhiên, có khả năng biểu hiện sâu sắc đời sống và nội tâm con người. Đó còn là thứ ngôn ngữ được kết hợp hài hoà giữa ngôn ngữ bác học với ngôn ngữ bình dân, tạo nên nhiều sắc thái biểu hiện rất đa dạng.
Nguyễn Du còn đặc biệt thành công trong việc xây dựng nhân vật. Ông đã để lại cho nền văn học dân tộc nhiều điển hình nhân vật bất hủ. Đến Nguyễn Du thế giới nội tâm con người với bao biến thái tinh vi, phức tạp dường như mới được khám phá trọn vẹn ở những chiều sâu không cùng của nó. Có thể nói tác phẩm của Nguyễn Du đã đạt tới sự mẫu mực của nghệ thuật cổ điển.
Cuộc đời hơn năm mươi năm sống giữa trần gian của Nguyễn Du dẫu nhiều bi kịch cay đắng, có khi mất phương hướng trong những cơn lốc xoáy của lịch sử, thế nhưng trước sau Nguyễn Du vẫn là con người của tài hoa, của một trái tim luôn chan chứa dạt dào niềm yêu thương và nỗi xót đau vô hạn cho mỗi kiếp người bất hạnh trên khắp thế gian. Nguyễn Du là một tài năng, một tâm hồn mà càng qua thời gian càng ngời sáng.
12/04/2024
hoaithanh5533Tác giả Nam Cao - tuổi nghề chỉ trên 10 năm nhưng sự nghiệp lại kết nối cả hai giai giai đoạn lịch sử quan trọng trước và sau 1945. Những tác phẩm của Nam Cao để lại đã trở thành bức phù điêu bất hủ trong lịch sử văn học hiện đại của Việt Nam. Chẳng thấy ở tác giả nào mà đời sống và đời văn lại gắn bó chặt chẽ với nhau như ở Nam Cao, nhìn vào văn ông thấy được đời mà nhìn vào đời để thấy được các giá trị từ trang văn của ông.
Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri, bút danh Nam Cao được lấy trong tên huyện và tên tổng nơi quê của ông là làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lí Nhân tỉnh Hà Nam). Ông sinh năm 1917 trong một gia đình nông dân bình thường, gia đình khá đông con và ông là người con duy nhất được ăn học tử tế. Sau khi học hết bậc Thành chung, năm 1935 ông bắt đầu đi làm kiếm sống, Nam Cao cùng cậu đi vào Sài Gòn nhưng làm được khoảng 3 năm thì bệnh tật khiến ông phải trở về quê và dạy học, viết văn. Dấu mốc quan trọng nhất chính là vào năm 1943 Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc, từ đó tới lúc hi sinh ông đã tận tụy phục vụ cách mạng và kháng chiến, ông tham gia kháng chiến ở quê nhà rồi vào mặt trận Nam Trung Bộ, sau đó năm 1947 lại lên Việt Bắc tham gia chiến dịch Biên giới năm 1950. Ngày 30-11-1951 khi đang trên đường vào vùng địch ở Liên khu III thì ông bị giặc phục kích và sát hại.
<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>Chính Nam Cao đã từng nói về mình rằng "có cái mặt không chơi được", ấy là vì vẻ ngoài ông lạnh lùng, ít nói nhưng thực ra bên trong nội tâm ông lại vô cùng phong phú, luôn sôi sục. Bản thân Nam Cao luôn đấu tranh với những suy nghĩ của mình để làm sao việc làm và ý nghĩ không phải xấu hổ, thoát ra khỏi sự tầm thường, nhỏ nhen. Nam Cao giàu ân tình với quê hương, sống gần gũi, gắn bó và có tấm lòng đồng cảm với những người nghèo khổ bị khinh miệt, áp bức trong xã hội lúc bấy giờ. Tình cảm ấy của ông được thể hiện rõ qua các tác phẩm như: Chí Phèo, Lão Hạc, những áng văn chan chứa niềm xót thương với kiếp lầm than, thấm đượm tư tưởng nhân đạo và tình thương đồng loại. Con người Nam Cao khi ấy cũng là trí thức nghèo, vừa hiểu nông dân lại vừa thấm thía cuộc sống người trí thức đương thời nên lí tưởng nhân đạo trong ông rất cao cả, cuộc đời ông gói gọn trong sáng tạo nghệ thuật và hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, ông là tấm gương cao đẹp của một nhà văn chân chính mà bao thế hệ nhà văn khác phải noi gương. Vào năm 1996 Nam Cao được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
So với những nhà văn cùng thời với Nam Cao, quan điểm nghệ thuật của ông có phần tiến bộ hơn, có tính tự giác, hệ thống và nhất quán. Đối với Nam Cao nghệ thuật phải viết về con người và hướng đến những thứ tốt đẹp của con người. Khi mới bắt đầu sự nghiệp sáng tác, ông cũng chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn. Thế nhưng sau đó ông đã nhận ra sự xa lạ của thứ văn chương ấy với thực tại cuộc sống đau khổ, lầm than của con người. Ông cho rằng, nghệ thuật phải gắn bó với đời, nhà văn cần nhìn thẳng vào hiện thực cuộc sống để nói lên sự thật và cả những những nỗi khổ, cùng quẫn của nhân dân. Nam Cao phê phán và không tán thành với loại sáng tác thi vị hóa cuộc sống, chỉ tả được vỏ ngoài của xã hội, quan niệm của ông trong sáng tác phải có tư tưởng nhân đạo là yêu cầu tất yếu, đòi hỏi cao sự tìm tòi sáng tạo, nhà văn phải có lương tâm.
Từ chủ nghĩa hiện thực mà ông theo đuổi, Nam Cao đã lựa đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, ông tham gia kháng chiến, vừa tận tụy phục vụ kháng chiến vừa ấp ủ những hoài bão sáng tác. Các đề tài chính của Nam Cao cũng được chia theo giai đoạn lịch sử đó là trước và trong Cách mạng. Trước Cách mạng ông viết nhiều về đề tài người trí thức nghèo và người nông dân nghèo, trong cách mạng, ông dùng ngòi bút để đấu tranh, ông viết nhiều về đề tài chiến tranh, người lính. Đối với đề tài người trí thức nghèo có các tác phẩm tiêu biểu như: Giăng sáng, Đời thừa, Nước mắt, Cười, tiểu thuyết Sống mòn,... những trí thức trong số các tác phẩm này được Nam Cao miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của họ trong xã hội cũ, từ họ mà đặt ra những triết lí sâu sắc, phê phán xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo đã tàn phá tâm hồn con người, rồi cũng từ đó thể hiện niềm khao khát sống có ích và ý nghĩa. Đối với đề tài người nông dân, các tác phẩm tiêu biểu là: Chí Phèo, Lão Hạc, Một bữa no, Mua danh, Trẻ con không được ăn thịt chó,... trong đó Chí Phèo là một kiệt tác. Trong đề tài này Nam Cao vẽ tranh về nông thôn Việt Nam chân thực trong cái nghèo đói xơ xác, thê thảm, bị bần cùng hóa, lưu manh hóa, ông không phải bôi nhọ dân nghèo mà là đang cố gắng khẳng định nhân phẩm bản chất tốt đẹp của họ cũng như kết án xã hội tàn bạo đã hủy hoại nhân tính của họ. Sau này trong kháng chiến, Nam Cao là cây bút tiêu biểu cho văn học kháng chiến chống Pháp với các tác phẩm văn xuôi thời kì đầu như: Nhật kí ở rừng, Đôi mắt. Phong cách nghệ thuật Nam Cao độc đáo, quan tâm tới đời sống tinh thần con người, biệt tài của ông chính là diễn tả và phân tích tâm lí nhân vật rất sắc sảo, từ những việc đời thường lại thể hiện triết lí sâu sắc về con người, cuộc sống, nghệ thuật.
<iframe class="ql-video ql-align-center" frameborder="0" allowfullscreen="true"></iframe>Có thể nói tác giả Nam Cao vừa là nhà văn hiện thực, vừa là nhà nhân đạo chủ nghĩa, qua các sáng tác của ông ta chợt thấy khắc nghiệt thời gian chẳng tồn tại, càng về sau giá trị sáng tác của ông càng ngời sáng, các bộc lộ ý nghĩa cả về nội dung và nghệ thuật. Thế hệ người đọc của ông mãi nhớ về ông với những nhân vật đã in hằn trong tâm trí, một nhà văn đóng góp rất lớn cho nền văn học nước nhà, để lại nhiều giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
nNếu bạn muốn hỏi bài tập
Các câu hỏi của bạn luôn được giải đáp dưới 10 phút
CÂU HỎI LIÊN QUAN
Top thành viên trả lời