Trong nền văn học Việt Nam, nếu nói về thơ chữ Hán thì chắc hẳn chúng ta sẽ nhớ ngay tới Nguyễn Trãi - nhà thơ lớn của dân tộc, làm rạng danh văn học nước nhà. Ông đã để lại cho đời sau một khối lượng lớn các tác phẩm có giá trị cả về chữ Nôm và chữ Hán. Và nhắc tới thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, ta không thể không kể tới bài thơ "Dục Thúy sơn" - một bài thơ được trích từ tập "Ức Trai thi tập".
Bài thơ "Dục Thúy sơn" được viết bằng chữ Hán, theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. Bài thơ là bức tranh phong cảnh núi Dục Thúy tuyệt đẹp cùng nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi khi đứng trước cảnh sắc thiên nhiên ấy.
Ngắm nhìn cảnh sắc nơi đây, tâm hồn người thi sĩ như rung động, nghẹn ngào trước vẻ đẹp đó:
"Hải khẩu hữu tiên san,
Niệu tiền có liễu quán;
Liên hoa phù thủy thượng,
Tiên cảnh trụy trần gian."
Dịch thơ:
"Cửa biển có non tiên,
Trước cửa hàng có chùa cổ;
Hoa trải thảm đất bằng,
Liễu giăng màn trời xanh."
Trong hai câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã gợi mở ra không gian cảnh sắc núi Dục Thúy. Tác giả đã khéo léo sử dụng hình ảnh "liễu" và "hoa" để tạo nên một khung cảnh nên thơ, trữ tình. Cây liễu rủ bóng xuống dòng sông, tạo nên một bức tranh thủy mặc vô cùng đẹp mắt. Hoa nở rộ khắp nơi, tô điểm thêm cho vẻ đẹp của núi rừng. Cảnh sắc nơi đây thật khiến cho con người ta xao xuyến, bồi hồi.
Đứng trước cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp ấy, nhà thơ đã có những cảm nhận vô cùng tinh tế:
"Tháp hình trâm thanh ngọc,
Bao quanh nước một tầng khói phủ."
Nhà thơ đã ví ngọn tháp trên đỉnh núi Dục Thúy như một cây trâm màu xanh ngọc bích. Hình ảnh so sánh này đã giúp người đọc dễ dàng hình dung được dáng vẻ của ngọn tháp. Tháp đứng sừng sững trên đỉnh núi, soi bóng xuống dòng sông, tạo nên một khung cảnh vô cùng nên thơ, trữ tình.
Bên cạnh đó, nhà thơ còn sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Từ "khói phủ" vốn dùng để miêu tả trạng thái của sương mù, nay lại được tác giả sử dụng để miêu tả màu sắc của nước. Điều này đã góp phần tạo nên một bức tranh thiên nhiên huyền ảo, lung linh.
Không chỉ vậy, nhà thơ còn thể hiện tình cảm của mình đối với núi Dục Thúy:
"Khách tục như chiêm bao,
Lòng người lâng lâng."
Nhà thơ đã so sánh khách du lịch như một giấc mơ. Điều này cho thấy nhà thơ đang đắm chìm trong vẻ đẹp của núi Dục Thúy, quên đi mọi phiền muộn, lo toan của cuộc sống thường nhật.
Như vậy, bài thơ "Dục Thúy sơn" đã khắc họa thành công cảnh sắc thiên nhiên núi Dục Thúy. Đồng thời, bài thơ cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước của nhà thơ Nguyễn Trãi.
Có thể khẳng định rằng, "Dục Thúy sơn" là một bài thơ hay, giàu ý nghĩa. Bài thơ đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng thơ ca Việt Nam.