1. Viết một đoạn văn (khoảng 6-8 câu) nêu lên những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của văn bản Người đàn ông cô độc giữa rừng
2. Hãy tóm tắt đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng trích trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi.
3. Hãy phân tích nhân vật An trong đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng của nhà văn Đoàn Giỏi
1. Em hãy tưởng tượng và kể tiếp câu chuyện Buổi học cuối cùng
2. Trong vai thầy Ha-men, hãy tả lại tâm trạng lên lớp của mình trong Buổi học cuối cùng
3. Thầy giáo Ha-men trong buổi học cuối cùng có gì khác so với thường ngày? Hãy tả lại hình ảnh thầy giáo Ha-men trong buổi học ấy.
4. Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về một nhân vật mà em yêu thích trong văn bản Buổi học cuối cùng
5. Viết đoạn văn miêu tả nhân vật thầy Ha-men trong Buổi học cuối cùng
6. Cảm nghĩ của em sau khi đọc xong truyện Buổi học cuối cùng của An-phông-xơ Đô-đê.
1. Câu chuyện Dọc đường xứ Nghệ của cha con cụ Phó bảng gợi cho em những suy nghĩ gì?
2. Phân tích suy nghĩ của cậu bé Côn về câu chuyện tình sử Mị Châu - Trọng Thủy
3. Vẻ đẹp xứ Nghệ gắn liền với những tích xưa trong đoạn trích Dọc đường xứ Nghệ của nhà văn Sơn Tùng
4. Phân tích nhân vật mà em yêu thích trong đoạn trích Dọc đường xứ Nghệ của nhà văn Sơn Tùng
Là một cây bút nổi tiếng của Pháp thế kỉ XIX, An-phông-xơ Đô-đê có lối viết ý nhị, đầy cảm xúc giản dị nhưng đằm thắm, thể hiện tấm lòng yêu quê hương tha thiết. Đọc tác phẩm Buổi học cuối cùng ta bắt gặp tất cả những điều đó.
Truyện đưa chúng ta đến một ngôi trường làng vùng An-dát để chứng kiến một câu chuyện đầy xúc động: buổi học Pháp văn cuối cùng.
Buổi học cuối cùng được diễn ra trong con mắt quan sát và cảm xúc suy ngẫm của cậu học trò nhỏ Phrăng và được kể lại bằng chính lời kể của cậu bé.
Phrăng là cậu học trò nghịch ngợm và lười học, thường hay trốn học để chơi ngoài đồng nội. Đối với cậu bé, bầu trời trong trẻo và tiếng sáo hót ven rừng trên đồng cỏ thường có sức cám dỗ hơn là những phân từ tiếng Pháp. Nhưng như có một linh cảm gì đó, hôm ấy Phrăng đã cưỡng lại sự cám dỗ và đến trường học. Dọc đường, cậu bé đã thấy một cái gì khang khác ngày thường. Khi vào lớp, cậu bé càng thấy ngạc nhiên hơn vì thấy thầy giáo không những chẳng giận dữ mà còn dịu dàng bảo cậu: Phrăng, vào chỗ nhanh lên con, lớp sắp bắt đầu học mà lại vắng mặt con, và phía cuối lớp, trên những dãy ghế bỏ trống, dân làng ngồi lặng lẽ, thầy Ha-men thì mặc một bộ lễ phục thật trang trọng.
Rồi những lời của thầy Ha-men vang lên: Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệnh từ Béc-lin là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren… Thầy giáo mới ngày mai sẽ đến. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con… khiến Phrăng choáng váng. Thì ra, để tôn vinh buổi học cuối cùng này mà thầy Ha-men đã vận y phục đẹp ngày chủ nhật và các cụ già trong làng lại đến ngồi ở cuối lớp học.
Phrăng bỗng tự giận mình về thời gian đã bỏ phí về những buổi trốn học đi bắt tổ chim hoặc trượt bằng trên hồ. Cậu đau lòng khi nghĩ tới chuyện phải giã từ những quyển ngữ pháp, những quyển thánh sử. Cậu quên cả nỗi giận thầy Ha-men vì những lần bị phạt.
Trong buổi học cuối cùng, Phrăng không đọc thuộc những quy tắc về phân từ, nhưng thầy giáo không trách mắng. Thầy giảng giải cho Phrăng và các cậu học trò hiểu hoãn việc học là một tai họa lớn. Thầy bảo lỗi đó cũng là một phần do cha mẹ không thiết tha lắm với việc muốn các con có học thức, và lỗi đó cũng có một phần ở thầy…
Song điều làm Phrăng thấm thía và xúc động là khi thầy Ha-men giảng giải về tiếng Pháp, bảo rằng đó là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất thế giới và vững vàng nhất, rằng phải giữ lấy nó trong mỗi người Pháp, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù…
Buổi học cuối cùng diễn ra trong không khí trang nghiêm và xúc động: thầy say sưa giảng bài, trò chăm chú lắng nghe và cặm cụi học tập.
Buổi học cuối cùng kết thúc bằng câu nói nghẹn ngào của thầy Ha-men: Các bạn, hỡi các bạn, tôi…, tôi… và dòng chữ đậm của thầy trên bảng “Nước Pháp muôn năm”.
Có thể nói, đây là câu chuyện xúc động về tình yêu Tổ quốc. Tình yêu ấy được biểu hiện cụ thể bằng tình yêu tiếng nói của dân tộc của thầy Ha-men, của những cậu học trò, của dân làng vùng An-dát. Để diễn tả tình yêu ấy, An-phông-xơ Đô-đê đã chú ý tập trung vào miêu tả cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng và hành động của các nhân vật, đặc biệt là thầy Ha-men và cậu học trò Phrăng.
Thầy Ha-men là một thầy giáo dạy Pháp văn. Tình yêu Tổ quốc thiết tha và tình cảm yêu thương con trẻ đã cho thầy sức mạnh tinh thần để gắn bó với một ngôi trường làng vùng núi An-dát xa xôi, hẻo lánh suốt bốn mươi năm trời. Bốn mươi năm trời cặm cụi với nghề dạy học, thầy không chỉ đem lại cho học sinh tình yêu đất nước qua việc yêu mến và giữ gìn tiếng nói của dân tộc.
Để tô đậm tình yêu tiếng Pháp của thầy Ha-men, tác giả đã chú ý đi sâu miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ, hành động, và nhất là cảm xúc, tâm trạng của thầy: mặc lễ phục, dịu dàng nói với Phrăng, tự trách mình, say sưa giảng giải về tiếng Pháp, đứng lặng yên trên bục đăm đắm nhìn những đồ vật xung quanh, người tái nhợt khi nghe tiếng chuông nhà thờ điểm 12 giờ, nghẹn ngào khi chia tay học sinh, viết lên bảng dòng chữ Nước Pháp muôn năm! Đứng tựa vào tưởng không nói được gì, giơ tay từ biệt học sinh…
Thầy Ha-men là hình ảnh đẹp về một người thầy tận tụy với nghề, hết lòng thương yêu học sinh đồng thời lại yêu nước sâu sắc, đằm thắm.
Tình yêu đất nước, yêu tiếng nói của dân tộc còn được bộc lộ qua tâm trạng Phrăng: Choáng váng khi nghe thầy Ha-men nói đây là buổi học Pháp văn cuối cùng, chăm chú học bài (khác hẳn mọi khi không chú ý học tập, hay trốn học), cảm thông với cõi lòng tan nát của thầy Ha-men.
Bên cạnh Phrăng là các bạn cùng lớp, dân làng, sự say sưa, cặm cụi học bài Pháp văn cuối cùng của họ, là sự tôn vinh tiếng nói dân tộc, sự nuối tiếc quãng thời gian đã bỏ phí, và cả nỗi đau giã từ môn Pháp văn…
Ngòi bút An-phông-xơ Đô-đê đặc biệt tinh tế khi thể hiện tâm trạng và tình cảm của nhân vật.
Đọc truyện ngắn Buổi học cuối cùng ta cảm nhận rất rõ một sự thật, một chân lí: khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ còn giữ được tiếng nói của mình thì chẳng khác nắm được chìa khóa chốn lao tù. Cũng bởi thế truyện ngắn giúp chúng ta yêu hơn, có ý thức hơn trong việc giữ gìn tiếng Việt mẹ đẻ của chúng ta.
Tiếng Việt
Bài 16: Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo
Chương 6. Tỉ lệ thức và đại lượng tỉ lệ
Bài 4. Giai điệu đất nước
Chương 4: Tam giác bằng nhau
Đề thi, đề kiểm tra Văn - Cánh diều Lớp 7
Bài tập trắc nghiệm Văn 7 - Kết nối tri thức
Bài tập trắc nghiệm Văn 7 - Cánh diều
Bài tập trắc nghiệm Văn 7 - Chân trời sáng tạo
Bài giảng ôn luyện kiến thức môn Ngữ Văn lớp 7
Đề thi, đề kiểm tra Văn - Chân trời sáng tạo Lớp 7
Đề thi, đề kiểm tra Văn - Kết nối tri thức Lớp 7
Lý thuyết Văn Lớp 7
SBT Văn - Cánh diều Lớp 7
SBT Văn - Chân trời sáng tạo Lớp 7
SBT Văn - Kết nối tri thức Lớp 7
Soạn văn chi tiết - Cánh diều Lớp 7
Soạn văn siêu ngắn - Cánh diều Lớp 7
Soạn văn chi tiết - CTST Lớp 7
Soạn văn siêu ngắn - CTST Lớp 7
Soạn văn chi tiết - KNTT Lớp 7
Soạn văn siêu ngắn - KNTT Lớp 7
Tác giả - Tác phẩm văn Lớp 7
Văn mẫu - Chân trời sáng tạo Lớp 7
Văn mẫu - Kết nối tri thức Lớp 7
Vở thực hành văn Lớp 7