I. Tác giả
1. Tiểu sử
- Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15 tháng 4 năm 1943, tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế;
- Sinh ra trong một gia đình trí thức, giàu truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng.
- Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, cùng thời với Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân.
II. Tác phẩm
1. Tìm hiểu chung
a. Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971, khi đang công tác ở chiến khu miền tây Thừa Thiên.
b. Bố cục (3 phần)
- Phần 1 (11 câu đầu) : Lời ru khi mẹ giã gạo.
- Phần 2 (11 câu tiếp) : Lời ru khi lao động sản xuất.
- Phần 3 (12 câu cuối) : Lời ru khi mẹ cùng dân làng tham gia chiến đấu.
2. Tìm hiểu chi tiết
a. Ý nghĩa nhan đề bài thơ:
- “Khúc hát ru” là một âm hưởng quen thuộc gợi ngọt ngào, sâu lắng trong tâm hồn mỗi người. Đó là điệu hồn dân tộc nuôi dưỡng tình cảm của chúng ta từ thưở ấu thơ, gợi sự êm dịu của tình mẹ.
- Nhà thơ lấy hình ảnh “những em bé” mang tính khái quát để chỉ một thế hệ những con người lớn lên được nuôi dưỡng từ trên lưng mẹ.
- Từ đó, ngợi ca người mẹ miền núi nói riêng và người mẹ Việt Namnói chung: bình dị mà vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc – giàu lòng yêu thương con, yêu bộ đội, yêu dân làng và yêu đất nước.
b. Hình ảnh người mẹ Tà – ôi:
Qua lời ru của tác giả
Hình ảnh người mẹ Tà-ôi gắn liền với công việc qua các hoàn cảnh cụ thể: người mẹ địu con làm công việc của người dân chiến khu – việc nhà,việc nước, việc kháng chiến.
- Ở đoạn thơ thứ nhất, mẹ địu con giã gạo góp phần nuôi bộ đội kháng chiến:
+ Công việc vất vả, nhưng tình yêu mẹ dành cho con thì vô cùng sâu sắc – “Nhịp chày nghiêng…tim hát thành lời”.
+ Hai mẹ con cùng chung một nhịp – nhịp chày giã gạo, nhịp lao động của mẹ.
+ Tấm thân của mẹ dành trọn cho con: đôi vai gầy làm gối, tấm lưng làm nôi đưa và tim hát thành lời ru.
- Ở đoạn thơ thứ hai, là hình ảnh người mẹ địu con tỉa bắp trên núi Ka-lưi – mẹ đang làm công việc lao động sản xuất của người dân chiến khu.
+ Hình ảnh tương phản “Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ” làm nổi bật sự gian khổ, chịu đựng của người mẹ giữa núi rừng mênh mông, nổi bật sự kiên cường, bền bỉ của mẹ trong công việc vất vả, nhọc nhằn.
+ Sáng tạo hình ảnh ẩn dụ -> diễn tả tình mẹ yêu thương con: “Mặt trời của bắp” là hình ảnh thực, là nguồn sáng quí giá nhất trong vũ trụ, đem lại sự sống cho muôn vật, giúp cho bắp lên đều, hạt mẩy. Giống như mặt trời ấy, em cu Tai là “mặt trời của mẹ” – là lẽ sống, là nguồn hạnh phúc ấm áp, vừa gần gũi, vừa thiêng liêng của đời mẹ, góp phần sửa ấm lòng tin yêu và ý chí của mẹ trong cuộc sống.
- Ở đoạn thơ thứ ba, là hình ảnh người mẹ địu con tham gia chiến đấu:
+ Giặc Mĩ càn đến, mẹ phải “đạp rừng”, “chuyển lán” để di chuyển lực lượng; mẹ phải cùng với các anh trai, chị gái tham gia chiến đấu bảo vệ căn cứ.
+ “Mẹ địu em đi để giành trận cuối”, mẹ xông pha vào chiến trường, mẹ vào tận Trường Sơn. Hai chữ “trận cuối” mang theo cả một niềm tin vào thắng lợi cuối cùng.
-> Qua ba đoạn thơ, qua những hoàn cảnh và công việc cụ thể, người đọc nhận ta tấm lòng người mẹ trên chiến khu. Người mẹ ấy lặng lẽ, bền bỉ, quyết tâm trong công việc kháng chiến, từ công việc lao động sản xuất đến công việc chiến đấu. Người mẹ ấy đằm thắm yêu con, gắn bó với buôn làng, quê hương, cách mạng, khát khao đất nước được độc lập tự do.
Qua lời ru trực tiếp của mẹ:
- Điệp lại lời ru của mẹ ở 3 đoạn thơ, ta thấy được tình yêu con tha thiết dịu dàng của người mẹ. Tình yêu ấy trải dài qua lời ru…
- Những điệp khúc “Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi”, “Mẹ thương a-kay”, “Con mơ cho mẹ”, “Mai sau con lớn” nhằm nhấn mạnh tấm lòng của người mẹ tha thiết yêu thương con. Mẹ mong cho con ngủ ngoan, và có được những giấc mơ đẹp, mẹ mong con mau lớn.
- Tình yêu con của mẹ gắn liền, hòa quyện với những tình cảm chung rộng lớn:
+ Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội.
+ Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói.
+ Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước.
-> Cấu trúc đối xứng trong từng câu thơ -> Tình yêu con hòa với tình yêu buôn làng, yêu kháng chiến, yêu đất nước…
- Trong lời hát ru, ta còn thấy ước mơ thật giản dị mà cao đẹp của người mẹ:
+ “Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần – Mai sau con lớn vung chày lún sân” -> mẹ mong muốn giã được thật nhiều gạo để nuôi bộ đội, mơ ước cu Tai sau này sẽ có sức khỏe vạm vỡ, cường tráng “vung chày lún sân”, trở thành một chàng trai dũng mãnh.
+ “Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều – Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi” -> mẹ ước mong hạt bắp lên đều để dân làng vượt qua đói khổ, mong muốn con trai sau này sẽ là một dũng sĩ có sức khỏe phi thường, “phát mười Ka–lưi”, đem lại cuộc sống no ấm đầy đủ cho buôn làng.
+ “Con mơ cho mẹ thấy được Bác Hồ – Mai sau con lớn làm người Tự do…” -> mẹ ước mong trong giấc mơ của con cho mẹ được thấy Bác Hồ. Mẹ ước mơ sau này cu Tai sẽ thành người tự do. Đó là ước mơ cháy bỏng, ước mơ lớn lao nhất, đẹp đẽ nhất.
-> Ý thơ lặp lại mà tăng tiến -> Mẹ mơ ước cho con lớn khôn, mạnh mẽ, giỏi giang, mơ ước đất nước độc lập, thống nhất, được thấy Bác Hồ, con được làm người tự do…
c. Giá trị nội dung
- Trong gian nan, vất cả của cuộc sống ở chiến khu, người mẹ càng dành cho con tình yêu thương thắm thiết, càng ước mong con mau lớn khôn, khỏe mạnh, trở thành công dân của một đất nước tự do.
- Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện tình yêu thương con gắn với lòng yêu nước, với tinh thần chiến đấu của người mẹ miền tây Thừa Thiên qua bài thơ.
d. Giá trị nghệ thuật
- Mang giai điệu, âm hưởng lời ru.
- Giọng điệu ngọt ngào, trìu mến.
- Nghệ thuật ẩn dụ, phóng đại.
Sơ đồ tư duy về bài thơ "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ":
CHƯƠNG I: CÁC THÍ NGHIỆM CỦA MENĐEN
Chương 3. Phi kim. Sơ lược về bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học
Đề thi vào 10 môn Văn Phú Thọ
Đề thi vào 10 môn Văn Tây Ninh
Đề thi học kì 2 mới nhất có lời giải