Đề bài
I. ĐỌC HIỂU
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
ngày chúng tôi đi
các toa tàu mở toang cửa
không có gì phải che giấu nữa
những thằng lính trẻ măng
tinh nghịch ló đầu qua cửa sổ
những thằng lính trẻ măng
quân phục xùng xình
chen bám ở bậc toa như chồi như nụ
con tàu nổi hiệu còi rung hết cỡ
và dài muốn đứt hơi
hệt tiếng gã con trai ồm ồm mới vỡ
thế hệ chúng tôi
hiệu còi ấy là một lời tuyên bố
một thế hệ mỗi ngày đều đụng trận
mà trách nhiệm nặng hơn nòng cối 82
vẫn thường vác trên vai
một thế hệ thức nhiều hơn ngủ
xoay trần đào công sự
xoay trần trong ý nghĩ
đi con đường người trước đã đi
bằng rất nhiều lối mới
(Một người lính nói về thế hệ mình – Thanh Thảo, 123, NXB Hội Nhà văn, 2007, tr. 63 – 64)
Câu 1: Trong văn bản trên, tác giả đã sử dụng thể thơ gì? Anh/chị dựa vào đâu để xác định như vậy?
Câu 2: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính và nêu tên các biện pháp tu từ nổi bật trong văn bản.
Câu 3: Đại từ “chúng tôi” trong đoạn thơ chỉ đối tượng nào? Ngoài đại từ này, đối tượng đó còn được gọi tên bằng một số cụm từ khác. Hãy chép ra các cụm từ ấy.
Câu 4: “Thế hệ chúng tôi” được khắc họa trong văn bản có những đặc điểm gì nổi bật? Tác giả đã dựng chân dung của thế hệ mình với thái độ như thế nào?
II. LÀM VĂN
Câu 1: Theo những điều được gợi lên từ nội dung văn bản phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày nhận thức của anh/ chị về trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay trước đất nước, dân tộc.
Câu 2: Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu - Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017), hai nhân vật Phùng và Đẩu từng có lúc thốt lên: “Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được!”.
Qua phân tích tình huống dẫn đến cảm giác ngạc nhiên, bối rối chứa đựng trong lời nói ấy của các nhân vật, anh/ chị hãy làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm.
Lời giải chi tiết
I. ĐỌC HIỂU
Câu 1:
- Thể thơ tự do.
- Căn cứ để xác định: số chữ trong các câu không đều nhau; cách ngắt dòng phóng túng; vần gieo không theo mô hình cố định, thậm chí có chỗ bỏ qua vần…
Câu 2:
- Phương thức biểu đạt chính của văn bản: biểu cảm (hoặc trữ tình) và tự sự.
- Các biện pháp tu từ nổi bật: ẩn dụ, so sánh.
Câu 3:
- Đối tượng được chỉ định bằng đại từ “chúng tôi”: những người lính trẻ thời chống Mỹ cứu nước.
- Một số cụm từ khác cùng chỉ về đối tượng: “những thằng lính trẻ măng”, “thế hệ chúng tôi”, “một thế hệ mỗi ngày đều đụng trận”, “một thế hệ thức nhiều hơn ngủ”.
Lưu ý: Vế thứ nhất của câu hỏi giúp xác định mức độ hiểu biết của thí sinh về tác giả và bối cảnh được miêu tả trong văn bản. Vế thứ hai của câu hỏi kiểm tra một kỹ năng đọc thơ mang tính đặc thù: nhận ra sự lặp lại với một số biến hóa của những từ/ hình ảnh then chốt, từ đó, xác định được hình tượng trung tâm và thông điệp chính của văn bản.
Câu 4:
- “Thế hệ chúng tôi” được khắc họa với những đặc điểm nổi bật: cởi mở, tinh nghịch, trẻ trung ("không có gì phải che giấu nữa, tinh nghịch ló đầu qua cửa sổ, chen bám ở bậc toa như chồi như nụ"); dám gánh vác trách nhiệm trước đất nước ("hiệu còi ấy là một lời tuyên bố"); dày dạn, kiên trì trước những thử thách khốc liệt ("mỗi ngày đều đụng trận, vác cối nặng, thức nhiều hơn ngủ, xoay trần đào công sự…"); đầy tinh thần sáng tạo trong hành trình cuộc sống ("xoay trần trong ý nghĩ, đi… bằng rất nhiều lối mới…").
- Thái độ của tác giả khi dựng chân dung thế hệ mình: tự tin, yêu quý, tự hào, không hề có một chút mặc cảm.
Lưu ý: Thí sinh không nhất thiết phải dùng đúng các từ định danh đặc điểm đối tượng miêu tả/ khắc họa và các từ khái quát về thái độ của nhà thơ giống như trong đáp án. Điều quan trọng là nhận ra được nội dung biểu đạt và sắc thái ý nghĩa riêng của những cụm từ/ hình ảnh nổi bật có trong văn bản được chọn in nghiêng ở trên.
II. LÀM VĂN
Câu 1:
1. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận:
- Trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay trước đất nước, dân tộc.
2. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm:
- Thế hệ trẻ, với đặc điểm trẻ trung, cởi mở của mình, luôn là nét tươi sáng, tích cực của bức tranh cuộc sống.
- Nói tới thế hệ trẻ là nói tới những hành trình đầy niềm hưng phấn, với tinh thần trách nhiệm rất cao.
- Thế hệ trẻ cần dấn bước vào đời với quyết tâm lớn, với những hành động quyết liệt, vì mục đích đưa đất nước bước lên tầm cao mới, khẳng định được tư thế tồn tại đường hoàng của mình trước thế giới, nhân loại.
- Thế hệ trẻ phải biết không ngừng khám phá, sáng tạo, “đi con đường người trước đã đi/ bằng rất nhiều lối mới”.
Lưu ý: Đây chỉ là một đoạn văn ngắn, không đòi hỏi quá khắt khe về bố cục, về hệ thống ý. Có thể dựa vào/ phỏng theo mạch cảm xúc/ suy nghĩ của tác giả văn bản (trong phần Đọc hiểu) để triển khai mạch viết riêng của mình (như gợi ý ở trên). Thí sinh có thể hoàn thành đoạn văn theo kiểu lần lượt trả lời (ngắn) các câu hỏi: Tại sao phải có trách nhiệm đối với đất nước, dân tộc? Trách nhiệm cụ thể của thế hệ trẻ hôm nay là gì? Thế hệ trẻ chúng ta đã làm gì, sẽ phải làm gì để thể hiện tinh thần trách nhiệm đó?
3. Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo chuẩn mực.
Câu 2:
1. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: có đủ mở bài, thân bài, kết luận; nội dung phần nào phải phù hợp với tính chất quy ước chung của phần ấy.
2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận:
- Tình huống dẫn tới lời thốt lên của hai nhân vật: “Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được!”.
- Nội dung và ý nghĩa thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm.
3. Nêu được những thông tin khái quát về tác giả, tác phẩm:
- Tác giả: Nguyễn Minh Châu – nhà văn tiêu biểu của nền văn học cách mạng, người góp phần đổi mới văn học sau 1975.
- Tác phẩm: viết năm 1983, báo hiệu sự chuyển mình của văn học Việt Nam sang thời kỳ mới.
4. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm:
- Một tình huống đầy nghịch lý, có nền là hoàn cảnh, sự việc nhiều éo le:
+ Cảnh bạo lực giữa khung cảnh thơ mộng.
+ Phản ứng lạ lùng của những người liên đới.
+ Cách giải quyết sự việc và kết cục bất ngờ.
- “Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được!” là câu nói mà hai nhân vật Phùng và Đẩu thốt lên tại tòa án huyện, khi họ hỏi (chất vấn) người đàn bà làng chài và lắng nghe những gì chị ta trần tình, giãi bày. Câu nói bộc lộ đỉnh cao của sự ngạc nhiên, sau tất cả những gì mà họ (nhất là Phùng) đã chứng kiến và tham dự, không chỉ tại tòa án mà còn tại bãi biển trong mấy buổi sớm. Họ ngạc nhiên vì thấy mọi việc không diễn ra theo logic bình thường.
- Thông điệp nhận thức về bản chất phức tạp của cuộc đời: mọi thứ không phải diễn ra như điều ta tưởng tượng, mong ước và suy đoán; tâm lý con người (nhất là người lao động nghèo khổ) diễn ra rất khác so với hình dung của những kẻ hời hợt hoặc thiếu thực tế. Bạo lực không chỉ có nguyên nhân từ những gì thuộc về bản tính con người mà còn từ sự khốn quẫn trong đời sống. Trong con người cam chịu vẫn có sự cứng cỏi và sự vị tha. Không phải cứ cách mạng về là hết khổ. Những hành động thiện chí không phải bao giờ cũng được đón nhận theo chiều hướng tích cực… Nói chung, nghịch lý luôn chứa đựng trong các sự kiện đời sống, trong mọi hành xử của con người.
- Thông điệp nhận thức về độ chênh giữa nghệ thuật và cuộc sống: nghệ thuật hời hợt thường chỉ thấy được bề nổi của sự vật, thường tự thỏa mãn với những cái nhìn thấy “từ xa”, thường chỉ dung nạp những gì thuần nhất, lý tưởng. Nhân vật Phùng đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác trong quá trình truy tìm cái đẹp, xây dựng ý tưởng sáng tạo. Những điều diễn ra đã giúp anh nhìn sâu hơn về bản chất và trách nhiệm của nghệ thuật chân chính, nghệ thuật vì con người.
- Đánh giá: Thông điệp mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm được rút ra từ chiêm nghiệm của một cây bút giàu trách nhiệm với cuộc đời, với nghệ thuật, luôn trăn trở với việc đổi mới văn học. Thông điệp đó, ngoài việc thể hiện rõ định hướng sáng tác của tác giả Chiếc thuyền ngoài xa trong giai đoạn mới, còn góp phần tích cực tạo nên bước chuyển của cả nền văn học Việt Nam sau 1975.
Lưu ý: Có khả năng nhiều thí sinh sẽ bê nguyên bài giảng về truyện Chiếc thuyền ngoài xa vào làm thành nội dung bài viết. Dĩ nhiên, với kiểu làm bài này, thí sinh sẽ có những “ý” chạm được/ đáp ứng được yêu cầu của đề, nhưng như thế là chưa nhìn thấy đòi hỏi tinh tế chứa đựng trong đề. Đặc biệt, thông điệp (của nhà văn) ở đây có một nội dung rất cụ thể, không chung chung để có thể ghép vào sáng tác của ai và vào thời kỳ nào cũng được. Không nên quá nhấn mạnh vào những khái niệm khá mơ hồ và mòn sáo như yêu thương, vị tha, thiên chức, cái đẹp… Nên tập trung suy nghĩ xoay quanh những từ có ý nghĩa theo chốt là phức tạp (của cuộc đời) và độ chênh (giữa nghệ thuật và hiện thực). Đây mới chính là điểm làm nên giá trị của Chiếc thuyền ngoài xa, dù về nghệ thuật, truyện ngắn này chưa phải đã hoàn hảo. Việc trình bày về nội dung thông điệp gắn tất yếu với việc phân tích ý nghĩa của thông điệp; không nhất thiết phải tách bạch hai phần viết với nhau. Phân tích ý nghĩa đúng chứng tỏ trước đó đã hiểu đúng nội dung (dù việc trình bày về nội dung này có thể chưa được tường minh). Đặc biệt, để phân tích được ý nghĩa thông điệp, phải lưu tâm đầy đủ đến bối cảnh sáng tác truyện ngắn này: các nhà văn phải đập vỡ thói quen/ quán tính nhận thức và sáng tác để thực hiện cuộc đổi mới văn học theo đòi hỏi của cuộc sống thời điểm đầu những năm 80 của thế kỷ XX. Những bài viết nào có ý so sánh sáng tác của hai thời kỳ văn học khác nhau nên cho điểm khích lệ. Việc quá quan tâm phân tích tính cách, phẩm chất nhân vật có thể đẩy bài viết đi chệch mục tiêu chính. Những đánh giá về nghệ thuật của tác phẩm chỉ nên được giới hạn ở phạm vi: sự lựa chọn các chi tiết làm nổi bật tính oái oăm của tình huống, với những kiểu phản ứng tâm lý, hành động đa dạng, ngược chiều nhau của các nhân vật ở từng phía…
5. Sáng tạo: sáng tạo trong cách diễn đạt, lập luận; nêu được những ý tưởng độc đáo
6. Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo chuẩn mực.
Chương 9: Hóa học và vấn đề phát triển kinh tế, xã hội và môi trường
Bài giảng ôn luyện kiến thức giữa học kì 1 môn Ngữ Văn lớp 12
GIẢI TÍCH SBT - TOÁN 12
Bài giảng ôn luyện kiến thức giữa học kì 1 môn Giáo dục công dân lớp 12
Đề thi học kì 2 của các trường có lời giải – Mới nhất